Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lao động thặng dư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
AlphamaEditor
Dòng 2:
{{unreferenced}}
 
'''''Lao động thặng dư''''' là một khái niệm được sử dụng bởi Karl Marx trong bài phê bình kinh tế chính trị của ông. Nó tồn tại khi mà khối lượng lao động được thực hiện vượt quá khối lượng lao động mà người lao động cần thực hiện để cung cấp đủ điều kiện sinh sống cho chính họ (“lao động cần thiết”). Từ “thặng dư” trong ngữ cảnh này có nghĩa là khối lượng lao động thêm mà người lao động phải làm trong công việc của họ, vượt quá số tiền mà họ có được. Theo học thuyết kinh tế của Marx, lao động thặng dư thường là để chỉ những lao động không được đền bù ( trả công ). Học thuyết kinh tế của Marx coi lao động thặng dư như là một nguồn quan trọng nhất của những lợi nhuận tư bản.
== Nguồn gốc của lao động thặng dư ==
Dòng 14:
|}
Sự xuất hiện lịch sử của lao động thặng dư, theo Marx, cũng liên hệ đến sự phát triển của trao đổi ( sự trao đổi kinh tế về hàng hóa và dịch vụ ) và liên quan đến sự xuất hiện của sự phân hóa giai cấp trong xã hội. Một khi một sản phẩm thặng dư cố định có thể được sản xuất thì câu hỏi về đạo đức chính trị nảy sinh: nó sẽ được chia thế nào, và lợi ích của lao động thặng dư sẽ dành cho ai. Mạnh thì thắng yếu, và những thành phần ưu tú của xã hội có thể nắm quyền kiểm soát lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư của những người dân lao động; họ có thể dựa vào lao động của những người khác.
Lao động, thứ đủ năng suất để tạo ra lao động thặng dư, trong nền kinh tế tiền tệ, là cơ sở quan trọng cho việc chiếm hữu giá trị thặng dư từ những lao động đó. Cách mà sự chiếm hữu này chính xác sẽ được thực hiện được quyết định bởi những quan hệ sản xuất phổ biến và sự cân bằng quyền lực giữa những tầng lớp trong xã hội.
 
Theo Marx, tư bản có nguồn gốc từ những hoạt động thương mại – mua để bán – và sự cho thuê dưới nhiều loại hình khác nhau, với mục tiêu là để tích lũy thu nhập (hay giá trị thặng dư) từ giao dịch này. Nhưng, ở thời kỳ đầu, việc này không bao gồm bất kì một phương thức sản xuất tư bản nào; hơn nữa, những thương gia buôn bán và người cho thuê là những người trung gian giữa những nhà sản xuất phi tư bản. Trong suốt chiều dài vận động của lịch sử, những cách cũ để thu hút lao động thặng dư đã dần dần được thay thế bằng những hình thức thương mại của sự bóc lột.
 
== Lao động thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử ==
Dòng 42:
|}
 
Trong trường hợp này, nhiều sản phẩm trao đổi một cách có hiệu quả cho ít sản phẩm hơn, và một giá trị lớn hơn trao đổi cho một giá trị nhỏ hơn, vì một số có thể chiếm được vị trí vững mạnh hơn trong thị trường, và số khác sẽ có vị trí thấp yếu hơn. Đối với hầu hết các phần trong tập ‘Tư Bản’, Marx đã cho rằng trao đổi ngang giá nghĩa là cung và cầu cân bằng; lý luận của ông là kể cả nếu, theo lời phát biểu lý tưởng, không trao đổi không ngang giá nào sẽ diễn ra trong mua bán hàng hóa, và công bằng thị trường hiện hữu, sự bóc lột tuy vậy có thể xảy ra trong những mối quan hệ sản xuất tư bản, bởi vì giá trị của hàng hóa được sản xuất bởi sức lao động vượt quá bản thân giá trị sức lao động của chính nó. Mặc dù vậy Marx đã không bao giờ hoàn thành được sự phân tích của mình về thị trường thế giới.
 
Trong thế giới thực, những nhà kinh tế chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx như Samir Amin tranh luận rằng, trao đổi không ngang giá diễn ra trong mọi thời điểm, hàm ý những chuyển đổi của giá trị từ nơi này đến một nơi khác, thông qua quá trình trao đổi buôn bán. Vì vậy, càng nhiều trao đổi buôn bán được “toàn cầu hóa”, thì sự trung gian giữa người sản xuất và người tiêu thụ càng lớn; cho nên, những người trung gian chiếm đoạt một phần nhỏ ngày càng tăng của giá trị cuối cùng của những sản phẩm, trong khi đó những người sản xuất trực tiếp thu được chỉ một phần nhỏ của giá trị cuối cùng.
Dòng 56:
Một vài những phê phán cơ bản mới của học thuyết Marx có thể được bắt gặp trong những công trình của Pearson, Dalton, Boss, Hodgson và Harris.
 
Nhà phân tích chủ nghĩa Marx John Roemer không thừa nhận cái mà ông ấy gọi là “định nghĩa cơ bản của chủ nghĩa Marx” ( sau Michio Morishima): sự tồn tại của lao động thặng dư là cần thiết và là điều kiện đủ cho lợi nhuận. Ông chứng minh rằng định nghĩa này là sai theo logic. Mặc dù vậy, chính Marx chưa bao giờ lý luận rằng lao động thặng dư là một điều kiện đủ cho lợi nhuận, mà chỉ là một điều kiện cơ bản cần thiết (Morishima tập trung vào việc chứng minh rằng, bắt đầu từ sự tồn tại của lợi nhuận được biểu lộ trong những thuật ngữ giá cả, chúng ta có thể rút ra được sự tồn tại của giá trị là một kết quả logic). Năm lí do đó là:
* Lợi nhuận trong một quá trình hoạt động tư bản “rút cục” cũng chỉ là một khẳng định tài chính đối với những sản phẩm và những lao động bắt buộc được tạo ra bởi những người mà chính họ sản xuất ra những sản phẩm và lao động bắt buộc đó, trong ưu điểm của quyền sở hữu của họ đối với những tài sản tư ( của cải tư sản ). *
 
* Lợi nhuận có thể được tạo ra hoàn toàn trong những quá trình trao đổi buôn bán, thứ mà tự chúng rất có thể bị xóa bỏ trong không gian và thời gian khỏi lao động thuộc về hợp tác xã thứ mà những lợi nhuận bao hàm một cách cơ bản. *
Dòng 68:
Tất cả mà Marx thực sự lý luận là: lao động thặng dư là một đặc trưng cần thiết của phương thức sản xuất tư bản giống như một điều kiện xã hội chung. Nếu lao động thặng dư đó không tồn tại, những người khác không thể chiếm đoạt lao động thặng dư đó được hoặc những sản phẩm của nó thông qua quyền sở hữu tài sản của họ.
 
Cũng như vậy, khối lượng lao động không được trả công, lao động tình nguyện hay công việc nhà được thực hiện bên ngoài giới kinh doanh và công nghiệp, theo như được tiết lộ bằng những khảo sát sử dụng thời gian, nó đã làm nảy sinh trong tâm trí một số người theo thuyết nam nữ bình quyền ( thí dụ như Marilyn Waring và Maria Miles ) một điều là những người theo chủ nghĩa Marx có thể đã đánh giá quá cao tầm quan trọng của lao động thặng dư công nghiệp được thực hiện bởi những người làm công được trả lương, bởi vì khả năng thực sự để thực hiện lao động thặng dư đó, tức là sự tái sản suất liên tục của sức lao động dựa vào tất cả các thể loại nguồn sống mà bao gồm cả những công việc không được trả công ( về một chủ đề thuộc về lí thuyết, xin hãy xem sổ tay của Bonnie Fox). Nói cách khác, công việc được thực hiện trong những hộ gia đình – thường bởi những người mà không hề bán sức lao động của họ cho những xí nghiệp tư bản – đóng góp vào phương tiện sống của những công nhân tư bản, những người có thể thực hiện một khối lượng lao động trao gia đình không đáng kể.
 
Có thể tranh cãi về khái niệm này bị bóp méo bởi những sự khác biệt to lớn liên quan đến lĩnh vực lao động:
Dòng 77:
 
Những đất nước bất đồng sâu sắc với cách mà họ tổ chức và chia sẻ công việc, những tỉ lệ tham gia lao động, và những giờ làm việc được trả lương trong một năm, nó có thể được xác minh một cách dễ dàng từ những dữ liệu của ILO. Xu hướng phân chia lao động chung trên thế giới là để công những dịch vụ công nghệ cao, dịch vụ tài chính và dịch vụ tiếp thị được đặt tại những nước giàu hơn, những nước mà nắm giữ hầu hết những quyền lợi về tài sản trí tuệ và sản xuất vật chất thực sự để đặt ở những nước có mức lương thấp. Thực tế, những nhà kinh tế theo chủ nghĩa Marx biện luận rằng, điều này có nghĩa là lao động của những công nhân trong những nước giàu có được định giá cao hơn so với lao động của những công nhân ở những nước nghèo hơn. Mặc dù vậy, họ dự đoán rằng trên quãng đường của lịch sử, sự hoạt động của quy luật giá trị sẽ có khuynh hướng làm cho những điều kiện sản xuất và việc bán hàng ở những nơi khác nhau trên thế giới bằng nhau.
==Tham khảo==
{{tham khảo}}