Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhóm đơn bội”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
Trong tiến hóa phân tử, một '''nhóm đơn bội''' hay '''haplogroup''' (từ tiếng Hy Lạp: ἁπλούς, haploûs, "onefold, duy nhất, đơn giản") là một nhóm các [[haplotype]] tương tự nhau, chia sẻ một tổ tiên chung có cùng một [[đột biến]] ''[[đa hình nucleotide đơn]]'' (SNP, single nucleotide polymorphism) trong tất cả các [[haplotype]]. Bởi vì một haplogroup gồm các [[haplotype]] tương tự nhau, có thể dự đoán một haplogroup từ các [[haplotype]]. Một phép kiểm tra [[Đa hình nucleotide đơn|SNP]] xác nhận một haplogroup.
Ký hiệu Haplogroup bắt đầu bằng chữ cái, và tiếp là phần chi tiết bao gồm số và chữ kết hợp bổ sung, ví dụ R1b1. [[Nhiễm sắc thể Y]] và haplogroup [[ADN ty thể]] (mtDNA) có chỉ định haplogroup khác nhau. Haplogroup liên quan đến nguồn gốc tổ tiên sâu xa, có niên đại hàng ngàn năm.<ref>The International Society of Genetic Genealogy see Haplogroup definition in DNA--NEWBIE GLOSSARY [http://www.isogg.org]</ref>
Trong di truyền của con người, các '''haplogroup''' thường nghiên cứu nhiều nhất là haplogroup [[nhiễm sắc thể Y]] (Y-ADN) và haplogroup [[ADN ty thể]] (mtDNA), cả hai có thể được sử dụng để xác định các quần thể di truyền. Y-ADN được truyền chỉ theo dòng phụ hệ, từ cha sang con trai, trong khi [[mtDNA]] được truyền chỉ theo dòng mẫu hệ, từ mẹ sang con của cả hai giới. Do không tái kết hợp, Y-ADN và [[mtDNA]] chỉ thay đổi bởi đột biến ở mỗi thế hệ, không có hòa lộn với nhau giữa các vật liệu di truyền của cha mẹ.
== Sự thành tạo haplogroup ==
''[[Ty thể]]'' là [[bào quan]] nhỏ nằm trong [[tế bào chất]] của [[tế bào nhân chuẩn]], chẳng hạn như [[tế bào]] của con người. Mục đích chính của nó là cung cấp năng lượng cho [[tế bào]]. [[Ty thể]] được cho là thể rút gọn từ các [[vi khuẩn]] cộng sinh từng sống tự do. Một dấu hiệu cho thấy các [[ty thể]] "từng sống tự do" là nó chứa [[ADN]] vòng, gọi là [[ADN ty thể]], có cấu trúc tương tự như [[vi khuẩn]] nhiều hơn so với các [[sinh vật nhân chuẩn]] (xem thêm ''[[thuyết nội cộng sinh]]''). Đa số các [[ADN]] của con người chứa trong các [[nhiễm sắc thể]] trong [[nhân tế bào]], nhưng [[mtDNA]] là một ngoại lệ.
Mỗi cá nhân sinh ra thừa kế [[tế bào chất]] và các [[bào quan]] độc quyền từ [[tế bào]] trứng của mẹ, trong đó có [[mtDNA]]. [[Tinh trùng]] chỉ góp vào [[ADN]] nhiễm sắc thể (bỏ lại các bào quan,... bên ngoài hợp tử). Khi một đột biến phát sinh trong một phân tử [[mtDNA]], nó sẽ được truyền theo trực hệ dòng nữ. Đột biến là sự sao chép sai lầm trong trình tự [[ADN]], và một sai lầm đơn được gọi là [[đa hình nucleotide đơn]] (SNP).
[[Nhiễm sắc thể Y]] của người là [[nhiễm sắc thể]] giới tính nam. Gần như tất cả mọi người có mang [[nhiễm sắc thể Y]] sẽ có hình thái nam{{efn|Trừ các trường hợp do bệnh lý tiềm ẩn, hoặc do tác động của môi trường tương tự như việc thiến các động vật nuôi bằng hóa chất}}. Mặc dù [[nhiễm sắc thể Y]] nằm trong [[nhân tế bào]] và kết hợp với [[nhiễm sắc thể X]], nhưng nó chỉ tổ hợp với [[nhiễm sắc thể X]] ở hai đầu của [[nhiễm sắc thể Y]], phần còn lại và là khá lớn của [[nhiễm sắc thể Y]] là ''không tái tổ hợp''. Ở người vùng không tái tổ hợp là 95%. Vì vậy, các [[nhiễm sắc thể Y]] và bất kỳ đột biến phát sinh trong nó được truyền từ cha sang con trai trong đường truyền trực hệ nam. Điều này có nghĩa là các [[nhiễm sắc thể Y]] và [[mtDNA]] chia sẻ các đặc tính cụ thể của từng dòng trong quần thể.
Các [[nhiễm sắc thể]] khác, tức nhiễm sắc thể thường và [[nhiễm sắc thể X]] ở phụ nữ, chia sẻ dữ liệu di truyền của nó qua hiện tượng giao chéo để dẫn đến tái tổ hợp, trong quá trình ''[[Giảm phân|phân bào giảm nhiễm]]'' (meiosis) phục vụ mục đích sinh sản hữu tính. Điều này có nghĩa là các vật liệu di truyền từ các [[nhiễm sắc thể]] được trộn lẫn qua từng thế hệ, và vì vậy bất kỳ đột biến mới nếu có được truyền lại một cách ngẫu nhiên từ cha mẹ sang hậu thế.
|