Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lớp phủ (địa chất)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Liên kết ngoài: clean up, replaced: {{Commonscat → {{thể loại Commons using AWB
n AlphamaEditor
Dòng 1:
[[Tập tin:Earth-crust-cutaway-english.svg|nhỏ|350px|Mặt cắt của [[Trái Đất]] từ [[lõi hành tinh|lõi]] tới [[tầng ngoài]] (quyển ngoài) của khí quyển.<br />1. ''Crust''-[[Lớp vỏ (địa chất)]]<br />2. ''Upper Mantle''-[[#Cấu trúc|Quyển Manti trên]]<br />3. ''Mantle''-[[#Cấu trúc|Quyển Manti dưới]]<br />4. ''Outer core''-[[Lõi ngoài (Trái Đất)|Lõi ngoài]]<br />5. ''Inner core''-[[Lõi trong (Trái Đất)|Lõi trong]]]]
'''Lớp phủ''' hay '''quyển manti''' là một phần trong cấu trúc của một số [[thiên thể|vật thể thiên văn]] [[Hành tinh kiểu Trái Đất|tương tự Trái Đất]]. Phần bên trong của [[Trái Đất]], tương tự như các [[hành tinh kiểu Trái Đất|hành tinh đất đá]] khác, về mặt [[hóa học]] chia ra thành các lớp. Lớp phủ là lớp có độ nhớt cao nhất nằm phía dưới lớp vỏ và phía trên [[lõi ngoài (Trái Đất)|lõi ngoài]].
Lớp phủ của [[Trái Đất]] là lớp vỏ đá dày khoảng 2.900&nbsp;km (1.800 dặm Anh)<ref name="six things">{{chú thích web |url=http://geology.about.com/od/mantle/tp/mantleintro.htm |title=Six Things to Know About the Earth's Mantle |last=Alden |first=Andrew |date=2007 |accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008 | publisher = About.com}}</ref> chiếm khoảng gần 70% thể tích Trái Đất. Nó chủ yếu là dạng rắn và nằm trên một lõi giàu [[sắt]] của Trái Đất, chiếm khoảng gần 30% thể tích Trái Đất. Các giai đoạn nóng chảy và [[núi lửa]] trong quá khứ tại các điểm nông hơn của lớp phủ đã tạo ra một [[lớp vỏ (địa chất)|lớp vỏ]] rất mỏng chứa các sản phẩm nóng chảy đã kết tinh gần bề mặt, mà trên đó diễn ra mọi dạng sự sống<ref name="moorland">{{chú thích web |url=http://www.moorlandschool.co.uk/earth/earths_structure.htm
|title=The structure of the Earth |date=2005 |publisher=Moorland School |accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008}}</ref>. Các loại khí thoát ra trong quá trình nóng chảy của lớp phủ Trái Đất có ảnh hưởng lớn tới thành phần và độ phổ biến của các chất khí có trong [[khí quyển Trái Đất]].
 
== Cấu trúc ==
Dòng 9:
* Vùng chuyển tiếp (410–670&nbsp;km hay 255-416 dặm Anh)
* Lớp phủ dưới (670–2.798&nbsp;km hay 416-1.739 dặm Anh)
* Lớp D" (2.798–2.998&nbsp;km hay 1.739-1.863 dặm Anh)<ref name="moorland"/><ref name="todays mantle">{{chú thích web |url=http://geology.about.com/library/weekly/aa031598.htm |title=Today's Mantle: a guided tour |first=Andrew |last=Alden |date=2007 |publisher=About.com |accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008}}</ref><ref name="cutaway">[http://mediatheek.thinkquest.nl/~ll125/en/fullstruct.htm Mặt cắt Trái Đất (hình ảnh)]. Tra cứu ngày ngày 7- tháng 10- năm 2008.</ref><ref name="burns">{{chú thích sách
|url=http://books.google.com/books?id=JiTuaX_1TU0C&pg=PA354&lpg=PA354&dq=mantle+chemical+composition&source=web&ots=szv6r4wlPA&sig=zRN1iHTek4r4pXxeTYLS2JOGazs
|alternateurl=http://books.google.com/books?id=JiTuaX_1TU0C&dq=mantle+chemical+composition
|title=Mineralogical Applications of Crystal Field Theory |last=Burns|first=Roger George|date=1993
|publisher=Nhà in Đại học Cambridge|accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008|isbn=0521430771 |pages= 354}}</ref>.
 
Đỉnh của lớp phủ được xác định bằng sự gia tăng đột ngột của tốc độ địa chấn, lần đầu tiên được [[Andrija Mohorovičić]] đề cập tới năm 1909; ranh giới này hiện nay được đề cập tới như là "[[điểm gián đoạn Mohorovičić|Moho]]"<ref name="todays mantle"/><ref name="moho">{{chú thích web |url=http://istrianet.org/istria/illustri/mohorovicic/ |title=Istria on the Internet – Prominent Istrians – Andrija Mohorovicic |date=2007 |accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008}}</ref>. Phần trên cùng nhất của lớp phủ cùng với lớp vỏ nằm trên là tương đối cứng và tạo thành [[thạch quyển]], một lớp không đồng đèu với độ dày tối đa đạt tới khoảng 200&nbsp;km. Phía dưới thạch quyển thì phần còn lại của lớp phủ trên là dẻo hơn trong [[lưu biến học]] của nó. Tại một số khu vực phía dưới thạch quyển thì tốc độ địa chấn bị giảm đi; đới tốc độ thấp này (LVZ) trải dài xuống phía dưới tới độ sâu vài trăm km. [[Inge Lehmann]] đã phát hiện thấy điểm gián đoạn địa chấn ở độ sâu khoảng 220&nbsp;km<ref name="lehmann">{{chú thích web |url=http://www.agu.org/inside/awards/lehmann2.html |title=Inge Lehmann biography |date=2005 |accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008 |first=Michael |last=Carlowicz |publisher=Hiệp hội địa vật lý Hoa Kỳ, Washington D.C.}}</ref>; mặc dù điểm gián đoạn này cũng đã được tìm thấy trong các nghiên cứu khác nhưng vẫn không rõ là điểm gián đoạn này có mặt ở mọi nơi hay không. Vùng chuyển tiếp là khu vực có độ phức tạp lớn; nó chia tách lớp phủ trên và lớp phủ dưới về mặt vật lý<ref name="burns"/>. Người ta biết rất ít về lớp phủ dưới, ngoại trừ điều duy nhất đã biết là nó dường như tương đối thuần nhất về mặt địa chấn. [[Điểm gián đoạn Gutenberg|D"]] là lớp chia tách lớp phủ ra khỏi phần lõi<ref name="moorland"/><ref name="todays mantle"/>.
 
== Đặc trưng ==
Dòng 22:
[[Tập tin:Earthquake wave paths.png|nhỏ|trái|Lập bản đồ phần bên trong của [[Trái Đất]] với sóng [[động đất|địa chấn]].]]
Đá lớp phủ nằm nông hơn khoảng 400&nbsp;km độ sâu bao gồm chủ yếu là [[olivin]]<ref name="eis">{{chú thích web |url=http://geology.com/nsta/earth-internal-structure.shtml
|title=Earth's Internal Structure – Crust Mantle Core – Geology.com |accessdate=ngày 8- tháng 10- năm 2008}}</ref>, [[pyroxen]], [[spinel]] và [[granat|thạch lựu]]<ref name="burns"/><ref name="aus">{{chú thích web |url=http://www.amonline.net.au/geoscience/earth/structure.htm#mantle |title=Geoscience: the earth: structure… |publisher=Australian Museum |date=2004 |accessdate=ngày 8- tháng 10- năm 2008}}</ref>; các kiểu đá điển hình được cho là [[peridotit]],<ref name="burns"/> [[dunit]] (peridotit giàu olivin) và [[eclogit]]. Giữa độ sâu khoảng 400&nbsp;km và 650&nbsp;km, olivin không ổn định và bị thay thế bằng các dạng [[đa hình (vật liệu)|đa hình]] áp suất cao với xấp xỉ cùng một thành phần: một đa hình là [[wadsleyit]] (hay kiểu ''beta-spinel''), còn đa hình kia là [[ringwoodit]] (khoáng vật với cấu trúc kiểu ''gamma-[[spinel]]''). Dưới độ sâu 650&nbsp;km, tất cả các loại khoáng vật của lớp phủ trên bắt đầu trở thành không ổn định; các khoáng vật phổ biến nhất hiện diện có cấu trúc (nhưng không phải thành phần) tương tự như cấu trúc của khoáng vật [[perovskit]]. Các thay đổi trong thành phần khoáng vật ở độ sâu khoảng 400 tới 650&nbsp;km sinh ra các dấu hiệu đặc trưng để phân biệt trong các hồ sơ địa chấn của phần bên trong Trái Đất, và giống như "moho", chúng dễ dàng được phát hiện bằng việc sử dụng sóng địa chấn. Các thay đổi khoáng vật học này có thể ảnh hưởng tới [[Đối lưu manti|đối lưu lớp phủ]], do chúng tạo ra các thay đổi về tỷ trọng và chúng có thể hấp thụ hay giải phóng [[ẩn nhiệt]] cũng như làm giảm xuống hay tăng lên độ sâu của sự chuyển tiếp pha đa hình cho các khu vực có nhiệt độ khác nhau. Các thay đổi trong thành phần khoáng vật học theo độ sâu đã được điều tra trong các thực nghiệm phòng thí nghiệm sao chép lại áp suất cao lớp phủ, chẳng hạn trong các thực nghiệm sử dụng [[đe kim cương]]<ref name="squeeze">
{{chú thích web |url=http://geology.about.com/library/weekly/aa030898.htm |title=The Big Squeeze: Into the Mantle |last=Alden |first=Andrew |accessdate=ngày 8- tháng 10- năm 2008 |publisher=About.com}}</ref>.
 
{| align="center" cellpadding="3" cellspacing="0" border="1" width="50%"
|+ '''Thành phần của lớp phủ Trái Đất theo phần trăm trọng lượng'''<ref name="mantle everything">[http://everything2.com/index.pl?node=Mantle mantle@Everything2.com]. Truy cập 2007-12-ngày 26 tháng 12 năm 2007.</ref>
|- bgcolor="#f0f0f0" align="center"
! width="14%" | Nguyên tố
Dòng 76:
 
Lý giải cho việc tại sao lớp lõi trong rắn, lớp lõi ngoài lỏng còn lớp phủ thì ở dạng rắn/dẻo là do sự phụ thuộc vào điểm nóng chảy tương đối của các lớp khác nhau (lớp lõi niken-sắt, lớp vỏ và lớp phủ là silicat) cũng như do sự gia tăng về nhiệt độ và áp suất khi di chuyển xuống sâu hơn vào bên trong Trái Đất. Ở bề mặt cả hợp chất của niken-sắt lẫn các silicat đều đủ nguội để là chất rắn. Trong lớp phủ trên, các silicat nói chung đều ở dạng rắn (ở một số chỗ với các lượng nhỏ ở dạng nóng chảy); tuy nhiên, do lớp phủ trên vừa nóng vừa chịu một áp suất chưa quá lớn, nên đá trong lớp phủ trên có độ hớt tương đối thấp. Ngược lại, lớp phủ dưới chịu áp lực mạnh hơn và vì thế có độ nhớt cao hơn so với lớp phủ trên. Lõi ngoài bằng niken-sắt kim loại là dạng lỏng cho dù phải chịu một áp suất rất lớn do nó có điểm nóng chảy thấp hơn so với các silicat lớp phủ. Lõi trong là chất rắn do áp suất cực lớn ở gần về tâm Trái Đất<ref name="louie">
{{chú thích web |url=http://www.seismo.unr.edu/ftp/pub/louie/class/100/interior.html |title=Earth's Interior |last=Louie |first=J. |date=1996 |accessdate=ngày 8- tháng 10- năm 2008 |publisher=Đại học Nevada, Reno}}</ref>.
 
== Nhiệt độ ==
Dòng 86:
[[Đối lưu]] của lớp phủ Trái Đất là quá trình hỗn loạn (trong ngữ cảnh và ý nghĩa của động lực học chất lưu), và nó được coi là một bộ phận của chỉnh thể trong chuyển động của các mảng kiến tạo. Chuyển động của mảng không nên lẫn với thuật ngữ cũ hơn là [[trôi dạt lục địa]] chỉ được áp dụng cho chuyển động của các thành phần lớp vỏ của các lục địa. Các chuyển động của thạch quyển và lớp phủ nằm dưới nó tạo thành một cặp đôi do thạch quyển chuyển động xuống là thành phần thiết yếu trong đối lưu lớp phủ. Trôi dạt lục địa là mối quan hệ phức tạp giữa các lực làm cho thạch quyển đại dương chìm xuống và các chuyển động trong lòng lớp phủ của Trái Đất.
 
Mặc dù ở đây có xu hướng là có độ nhớt cao hơn ở độ sâu lớn hơn, nhưng mối quan hệ này không tuyến tính, và có các lớp với độ nhớt giảm rất mạnh, cụ thể là lớp phủ ngoài và tại ranh giới với lõi<ref name="jena">[http://www.igw.uni-jena.de/geodyn/poster2.html Mantle Viscosity and the Thickness of the Convective Downwellings], truy cập ngày ngày 8- tháng 10- năm 2008.</ref>. Lớp phủ trong phạm vi độ sâu khoảng 200&nbsp;km phía trên [[điểm gián đoạn Gutenberg|ranh giới lõi-lớp phủ]] dường như là có các tính chất địa chấn khác biệt đặc trưng hơn so với lớp phủ ở các độ sâu nhỏ hơn; khu vực lớp phủ bất thường nằm ngay phía trên lõi này được gọi là '''lớp D″''' ("D phẩy phẩy" hay "D phẩy kép"), một tên gọi được giới thiệu đã trên 50 năm của nhà địa vật lý [[Keith Edward Bullen|Keith Bullen]]<ref name="bullen">{{chú thích web |url=http://geology.about.com/library/weekly/aa021300a.htm |title=The End of D-Double-Prime Time? |accessdate=ngày 8- tháng 10- năm 2008 |publisher=About.com |first=Andrew
|last=Alden}}</ref>. '''D″''' có thể bao gồm vật liệu từ các miếng ẩn chìm đã hạ thấp xuống và đi vào trạng thái nghỉ tại [[điểm gián đoạn Gutenberg|ranh giới lõi-lớp phủ]] và/hoặc từ đa hình khoáng vật mới được phát hiện trong perovskit, gọi là [[hậu perovskit]].
 
Dòng 100:
Năm 2005 lỗ khoan lòng đại dương sâu hàng thứ ba này đạt tới 1.416&nbsp;m (4.644&nbsp;ft) phía dưới đáy biển từ tàu khoan đại dương [[JOIDES Resolution]].
 
Ngày [[5 tháng 3]] năm [[2007]], một đội các nhà khoa học trên tàu [[RRS James Cook]] đã thực hiện một chuyến đi tới khu vực đáy Đại Tây Dương, nơi có lớp phủ nằm không có vỏ che đậy, ở giữa [[quần đảo Cape Verde]] và [[biển Caribe]]. Khu vực lộ ra này nằm sâu khoảng 3&nbsp;km phía dưới bề mặt đại dương và bao phủ hàng nghìn kilômét vuông<ref>{{chú thích báo | first=Ker | last=Than | coauthors= | title=Scientists to study gash on Atlantic seafloor | date=ngày 1- tháng 3- năm 2007 | url =http://www.msnbc.msn.com/id/17407745/ | work =Msnbc.com | accessdate = ngày 8- tháng 10- năm 2008 | quote = A team of scientists will embark on a voyage next week to study an "open wound" on the Atlantic seafloor where the Earth’s deep interior lies exposed without any crust covering.}}</ref><ref>{{chú thích báo | title=Earth's Crust Missing In Mid-Atlantic | date=ngày 2- tháng 3- năm 2007 | publisher= | url =http://www.sciencedaily.com/releases/2007/03/070301103112.htm | work =Science Daily | quote = Cardiff University scientists will shortly set sail (March 5) to investigate a startling discovery in the depths of the Atlantic.| accessdate = ngày 8- tháng 10- năm 2008}}</ref>
 
Cố gắng tương đối khó khăn để lấy mẫu từ lớp phủ Trái Đất được lập lịch trình muộn hơn năm 2007<ref name="chikyu">{{chú thích báo | first= | last= | coauthors= | title=Japan hopes to predict 'Big One' with journey to center of Earth | date=ngày 15- tháng 12- năm 2005 | url =http://web.archive.org/web/20051219103451/http://www.physorg.com/news9073.html | work =PhysOrg.com | pages = | accessdate = ngày 8- tháng 10- năm 2008 | quote = An ambitious Japanese-led project to dig deeper into the Earth's surface than ever before will be a breakthrough in detecting earthquakes including Tokyo's dreaded "Big One," officials said Thursday.}}</ref>. Như một phần của sứ mệnh [[Chikyu Hakken]], là sử dụng tàu 'Chikyu' của Nhật Bản để khoan sâu tới 7.000&nbsp;m (23.000&nbsp;ft) dưới đáy đại dương. Nó gần như ba lần sâu hơn so với các mũi khoan đại dương trước đó.
 
Một phương pháp mới trong thăm dò hàng trăm kilômét trên nhất của Trái Đất đã được phân tích gần đây, bao gồm máy dò sinh nhiệt nhỏ, dày dặc, làm nóng chảy đường đi của nó xuống phía dưới xuyên qua lớp vỏ và lớp phủ trong khi vị trí và tiến độ của nó được theo dõi bằng các tín hiệu âm thanh sinh ra trong đá<ref>Ojovan M.I., Gibb F.G.F., Poluektov P.P., Emets E.P. 2005. [http://www.springerlink.com/content/f5485r63k7313h23/ Probing of the interior layers of the Earth with self-sinking capsules]. Atomic Energy, 99, 556–562</ref>
Dòng 120:
* [http://www.nas.edu/history/mohole/ Thông tin về Dự án Mohole]
* {{chú thích web|url=http://mediatheek.thinkquest.nl/~ll125/en/mantle.htm |title=The Mantle |date=2000
|accessdate=ngày 7- tháng 10- năm 2008 |last=Thinkquest Team}}
 
{{earthsinterior}}