Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huỳnh Phú Sổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 27:
 
==Thiếu thời==
Huỳnh Phú Sổ sinh ngày [[15 tháng 1]] năm [[1920]], nhằm ngày [[25 tháng 11]] năm [[Kỷ Mùi]] tại làng Hoà Hảo, quận [[Tân Châu]], tỉnh [[Châu Đốc]], (nay thuộc huyện Phú Tân, tỉnh [[An Giang]]); con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Thuở nhỏ ông thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược Pháp - Việt nhưng hay bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học.
 
Trong một lần lên [[núi Sam]] (thuộc [[Bảy Núi]], [[An Giang]]), tiếp xúc với phái Phật giáo [[Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương|Bửu Sơn Kỳ Hương]], ông được trị bệnh tốt và luyện chí tu hành. Năm [[1937]], Huỳnh Phú Sổ về làng chữa bệnh cho dân, và viết sám giảng ''Khuyên người đời tu niệm'' ([[1939]])<ref>Quyển ''Khuyên người đời tu niệm'' của Huỳnh Phú Sổ, gồm 912 câu thơ lục bát, được viết năm [[Kỷ Mão]] ([[1939]]) tại làng Hòa Hảo. Đây là quyển thứ nhứt trong bộ Sám giảng (còn được gọi là sấm giảng) và thi văn giáo lý của ông.</ref>.
 
Từ thuở bé, ông đã có căn tính của một người tu hành, ông không thích đàn địch, ca hát, cười dỡn như các bạn cùng trang lứa, lúc nào ông cũng trầm tư, mặc tỉnh, thích ở nơi thanh vắng, yên tỉnh. ông lại rất hổ thẹn và phản đối ngay khi nghe song thân bàn chuyện kiếm người bạn đời cho ông.
 
Dù mới chỉ học xong tiểu học và chưa từng nghiên cứu Phật Học, ông bỗng nhiên có một kiến thức Phật Học uyên bác, và hơn thế nữa, một khả năng "xuất khẩu thành thơ" biến những kiến thức Phật Học thành những bài thơ giảng đạo đi sâu vào lòng quần chúng bình dân, ít học. Ngoài ra ông làm thơ bằng chữ Nho một cách tinh thông, xuất sắc dù không học chữ Nho. Không những thế, ông còn bỗng nhiên có tài chữa bịnh, kể cả những bịnh nan y dù chưa từng học về y khoa. Ngày 18 tháng năm năm Kỷ Mão, tức ngày 4/7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ tuyên bố khai lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo, khi ấy ông chỉ mới 19 tuổi.
 
==Khai đạo==