Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Việt Bắc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thêm nội dung phần "kháng chiến"
Đã lùi lại sửa đổi thiện ý của 27.2.133.61 (thảo luận): Chép từ bài khác. (TW)
Dòng 3:
'''Việt Bắc''' là một vùng phía [[hướng Bắc|Bắc]] [[Hà Nội]] thời [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] ([[1945]]-[[1954]]) bao trùm nhiều [[tỉnh (Việt Nam)|tỉnh]] ở [[Bắc Bộ Việt Nam|Bắc Bộ]]. Ngày nay nó thường được hiểu là khu vực gồm 6 tỉnh [[Cao Bằng]], [[Bắc Kạn]], [[Lạng Sơn]], [[Hà Giang]], [[Tuyên Quang]], [[Thái Nguyên]] hay còn được gọi tắt là Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái.
 
Việt Bắc được gọi một cách văn hoa là ''Thủ đô kháng chiến'', bởi đây là nơi trú đóng của đầu não [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] thời trước khi [[Cách mạng tháng Tám|khởi nghĩa năm 1945]], và là nơi trú đóng của đầu não chính phủ [[Việt Minh]] trong thời kỳ [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] ([[1945]] - [[1954]]). Nó cũng được gọi là ''Thủ đô gió ngàn'', tên gọi này được bắt nguồn từ bài thơ ''Sáng tháng năm'' của nhà thơ Tố Hữu<ref>[http://www.tienphong.vn/Page/PrintView.aspx?ArticleID=82575 Đâu là "Thủ đô kháng chiến", "Thủ đô gió ngàn"?]</ref>
 
==Hình thành==
Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cách đây 69 năm, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng Việt Bắc bao gồm hai căn cứ lớn trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại vi tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái.
 
Trên cơ sở những căn cứ địa cách mạng đã lần lượt thành lập ở Việt Bắc và căn cứ vào những báo cáo nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ (15/4/1945) , Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Nay vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, đại thể nối liền nhau, nên thành lập một căn cứ lấy tên là Khu giải phóng”. Khu giải phóng Việt Bắc lấy Tuyên Quang làm trung tâm, làm nơi ATK Trung ương, nơi đặt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.
 
Trong khu giải phóng các ủy ban do dân cử được hình thành, tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Với 1 triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau, khu giải phóng đã thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.
{| class="boxdoituong"
|Tháng 12/1953, tại chiến khu Việt Bắc (Thái Nguyên), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận có tính chất chiến lược: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh tinh nhuệ Pháp ở Điện Biên Phủ. Ảnh:  TTXVN
|}
Khu giải phóng được xây dựng trên một vùng rộng lớn, địa hình chủ yếu là núi rừng. Phía Bắc giáp Trung Quốc. Vùng biên giới Việt - Trung là nơi cách mạng hoạt động rất thuận lợi và qua đây có thể liên lạc với phong trào Cộng sản quốc tế. Phía Nam là vùng trung du, đồng bằng. Do đó, gặp thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang cách mạng có thể tiến nhanh phát huy thắng lợi và nếu gặp khó khăn có thể lui về để bảo toàn lực lượng. Theo các triền núi phía Đông, Khu giải phóng có thể liên lạc với biển và Hải Phòng. Theo các triền núi phía Tây, có thể liên lạc với khu Tây Bắc và các tỉnh miền núi Trung bộ. Tóm lại, Khu giải phóng có vị trí rất cơ động, “tiến có thể đánh”, “lui có thể giữ”.
 
Trong khi đó, nhân dân các dân tộc Việt Bắc có truyền thống lâu đời và rất vẻ vang, cùng đoàn kết chặt chẽ bên nhau để đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc cũng như nhân dân cả nước khát khao độc lập tự do, khát khao một cuộc sống hạnh phúc. Cho nên, khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng thì nhân dân các dân tộc Việt Bắc nhanh chóng tiếp thu đường lối cách mạng của Đảng, kiên quyết đi theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra. Do vậy, Khu giải phóng được nằm trong sự bảo bọc, che chở của nhân dân. Đây là một trong những yếu tố quyết định đảm bảo cho Khu giải phóng được an toàn trong suốt thời kỳ lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa.
 
Trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân lớn vào chiến khu Việt Bắc. Với quyết tâm và trọng trách được giao, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã chung sức, chung lòng cùng các đơn vị bộ đội chủ lực làm tròn trách nhiệm nặng nề trước lịch sử và dân tộc là bảo vệ an toàn lãnh tụ và các cơ quan đầu não của ta. Vừa phá tan các cuộc tiến công truy quét với quy mô lớn của kẻ thù, các địa phương trong tỉnh còn thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững chắc phục vụ kháng chiến.
 
Cũng từ chiến khu Việt Bắc, nhiều chính sách quan trọng của Đảng đã đi vào lịch sử. Tại đây, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã hoạch định, bổ sung đường lối cách mạng để dân tộc Việt Nam lập nên kỳ tích: Giữ vững thành quả của Cách mạng Tháng Tám-1945, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. 
{| class="boxdoituong"
|Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ nhất từ phải) và đồng chí Nguyễn Chí Thanh (thứ hai từ phải) tại chiến khu Việt Bắc năm 1951. Ảnh: TTXVN
|}
Trong thư gửi đồng bào Việt Bắc năm 1947, Hồ Chí Minh đã đánh giá vai trò to lớn của Việt Bắc trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Cách mạng đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”.
 
Tiếp nối truyền thống cách mạng trong kháng chiến, trong những tháng năm của thời kỳ đổi mới, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ và nhân dân các tỉnh thuộc Chiến khu Việt bắc luôn thực hiện thắng lợi và toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra, bộ mặt đô thị, nông thôn từng bước được khởi sắc; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một cải thiện và nâng cao.
 
Việt Bắc, nơi mà lòng yêu nước của đồng bào hòa nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch, đã được lịch sử chứng minh là hậu cứ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.
 
==Kháng chiến==
 
'''Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947''', hay '''Chiến dịch Léa''' theo cách gọi của người Pháp, là một chiến dịch quân sự do quân đội Phápthực hiện tại Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương. Chiến dịch này được xem là chiến thắng lớn đầu tiên của phe Việt Minh trong cuộc chiến, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp.<sup>[4]</sup>
 
Chiến dịch này đã ghi dấu thất bại của Pháp trong việc tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực của Việt Minh.
 
== Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn] ==
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động và tầm quan sát, khả năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành tác chiến lớn phải theo mùa... nên ngay từ tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Phạm Văn Đồng và Nguyễn Lương Bằng ở lại Tân Trào một thời gian, trực tiếp chỉ đạo củng cố khu căn cứ của Trung ương.
 
Đến cuối tháng 10 năm 1946 (trước ngày Toàn quốc kháng chiến), thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn), Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hoá,Đại Từ (Thái Nguyên), được chọn làm An toàn khu (ATK). Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực lượng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
 
Đầu năm 1947, sau khi giải pháp chính trị lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực dân Pháp đã quyết định dùng quân sự để giải quyết vấn đềChiến tranh Đông Dương. Tướng Salan được chính phủ Pháp cử sang Bắc kỳ thay thế đại tá Dèbes trong chức vụ Chỉ huy quân lực Pháp ở Bắc Đông Dương. Tướng Valluy vẫn giữ chức Chỉ huy tối cao quân đội viễn chinh thay thế Leclerc từ hồi tháng 6-1946.
 
Tướng Jean-Etienne Valluy (Valuy) – Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho tướng Xalăng (Raoul Salan) – Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương gấp rút chuẩn bị ''"Kế hoạch tấn công Việt Bắc"''. Valluy và Salan nghiên cứu một cuộc hành quân đại quy mô vào vùng Việt Bắc mục đích phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt minh, lùng bắt chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm soát vùng biên giới Hoa - Việt.
 
Sau khi chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ và các đô thị lớn tại miền Bắc, theo chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tấn công mới lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh đang đóng tại đây, hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương.
 
Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước :
* Bước 1: Mang mật danh Lê-a (Léa), mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc Cạn – Chợ Đồn – Chợ Mới.
* Bước 2: Mang mật danh Xanh-tuy, tức là ''"Siết chặt vành đai"'', quân Pháp sẽ tập trung lực lượng càn quét khu tam giác: Bắc Cạn - Chợ Chu – Chợ Mới, lấy vùng Chợ Chu làm mục tiêu trọng điểm."
Cuộc hành quân mệnh danh là LÉA, lấy tên một ngọn đèo cao 1362 mét trên đường thuộc địa số 3 giữa Bắc Kạn và Cao Bằng. Mục tiêu của Pháp là: ''"Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt–Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ…"''
 
=== Lực lượng hai bên[sửa | sửa mã nguồn] ===
Lực lượng Pháp tham gia tiến công trên 15 nghìn quân, gồm:
* Năm trung đoàn bộ binh: Trung đoàn Maroc số 6 (6eRTM), trung đoàn bộ binh thuộc địa Maroc (RICM), trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4 (4e - RIC), trung đoàn bộ binh Lê dương số 3 (3e REI) và một trung đoàn do Cô-xtơ (Coste) chỉ huy.
* Ba tiểu đoàn dù, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đoàn công binh, ba đại đội cơ giới,
* Hai phi đội với 40 máy bay, ba thuỷ đội xung kích với 40 tàu, xuồng.
Về phía Việt Minh, lực lượng quân đội trên toàn quốc có 105.990 người (Bắc Bộ có 45.802 người); biên chế thành 20 trung đoàn, có hai trung đoàn 147 và 165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị của các đơn vị đều thiếu thốn và không thống nhất, có gì dùng nấy. Một tiểu đoàn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của Pháp, với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, tám trung liên, 140 đến 160 súng trường đủ các kiểu (Nhật, Nga, Pháp); hơn một nửa quân số phải dùng các vũ khí thô sơ như súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên... Chỉ có một số tiểu đoàn của Bộ là có pháo 20mm, trọng liên 13,2 mm, 12,7 mm và súng cối 81mm. Vũ khí chống tăng thì thô sơ (chỉ có lựu đạn và bom ba càng), xe cơ giới và phi cơ thì không có.
 
Bộ đội và cán bộ chỉ huy các cấp chưa được huấn luyện thành thục về kỹ thuật, chiến thuật. Trình độ và khả năng chiến đấu giữa các đơn vị không đồng đều. Trừ Trung đoàn Thủ đô và Trung đoàn Lạng Sơn đã được thử thách qua chiến đấu, phần lớn các đơn vị còn lại chưa hề qua chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, tình hình trang bị không cho phép tiến hành những trận đánh lớn. Các binh chủng pháo binh, công binh chưa được tổ chức thành đơn vị. Phương tiện thông tin liên lạc và vận tải thiếu nhiều, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Chỉ có Bộ, Khu và trung đoàn là có vô tuyến điện, từ tiểu đoàn trở xuống liên lạc bằng chạy chân và tín hiệu thủ công. Cung cấp, tiếp tế hậu cần rất khó khăn, chủ yếu dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương. Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương.
 
Riêng trên địa bàn chiến dịch, Việt Minh có 7 trung đoàn bộ binh, tổng cộng 18 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có hai tiểu đoàn của Bộ), 30 đại đội độc lập, 4.228 dân quân du kích tập trung; ngoài ra còn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng trên toàn Quân khu Việt Bắc. Pháo binh chỉ có tất cả là bốn khẩu (ba khẩu sơn pháo 75mm, một khẩu 70mm). Phòng không có hai pháo 20mm, hai khẩu 13,2 mm và sáu khẩu 12,7 mm.
 
Chiến dịch do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Sở chỉ huy cơ bản ở Yên Thông; đến chiều 20 tháng 10 năm 1947, chuyển sang Tràng Xá (Thái Nguyên). Giai đoạn 2 chuyển về vùng Lục Rã, Quảng Nạp.
 
== Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn] ==
 
=== Giai đoạn 1[sửa | sửa mã nguồn] ===
Pháp huy động 15.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương. Chiến dịch này bắt đầu ngày 7 tháng 10 năm 1947 với một binh đoàn quân dù gồm 800 lính đổ bộ lên Bắc Cạn dưới quyền chỉ huy của đại tá Sauvagnac, chiếm đóng các công sở, nhà thương, kho bạc, nhà máy đèn...
 
Va-luy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là "Thủ đô mới" của Việt Minh. Va-luy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, không khi nào có cơ quan Trung ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu 1 bộ phận bị phá thì vẫn có những bộ phận khác thay thế.
 
Khi quân Pháp nhảy dù tập hậu, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một bộ phận của tiểu đoàn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một tiểu đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và một số cơ quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng in tiền và công binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của Ty Ngân khố, nhưng còn quá xa so với mục tiêu ''"phá huỷ tiềm năng chiến tranh của Việt Minh"'' mà Pháp đề ra.
 
Raoul Salan coi cuộc hành binh Lê-a ngày 7-10-1947 là một đòn quyết định ''"đánh thẳng vào tim kẻ thù"''. Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sauvagnac từ mặt đất báo cáo qua vô tuyến điện: ''"Ông Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh"''. Salan vội bay về Hà Nội báo tin mừng với Sài Gòn. Cao uỷ Bollaert và quyền tổng chỉ huy Battet bay ngay ra Hà Nội. Nhưng ít giờ sau, Salan đã biết mình lầm, đành phải xin lỗi. Hai quan chức trên quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salan nặng nề... Thực chất hôm ấy, lính dù bắt được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên tưởng lầm. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn chết cụ Tố khi cụ tìm cách chạy trốn.
 
Ngày 8-10-1947, 200 quân Pháp nhảy dù chiếm Chợ Đồn. Cùng lúc các lực lượng khác theo hai đường thủy-bộ. Một đạo thuỷ quân dưới quyền chỉ huy của đại tá Communal theo đường thủy ngược sông Đà, sông Gầm tiến chiếm Phủ Đoan ngày 12, chiếm Tuyên Quang ngày 13 và Chiêm Hoá ngày 17 tháng 10, cánh bộ binh do đại tá Beaufre chỉ huy, tiến từ Lạng Sơndọc theo đường thuộc địa số 4 tiến qua Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê tới Cao Bằng ngày 12 tháng 10, rồi từ Cao Bằng dọc theo đường thuộc địa số 3bis xuống Bắc Kạn để bao vây Chiến khu Việt Bắc từ hướng Đông.
 
Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí: Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo vệ 15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ - Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144 - Bộ Quốc phòng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan trung ương khẩn trương sơ tán đến nơi an toàn.
 
Ngày 9 tháng 10, khẩu đội 12,7 mm của đại đội 675 trung đoàn 74 bố trí ở đồi Thiên Văn, thị xã Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Junker Ju 52 chở sĩ quan tham mưu chiến dịch Pháp đi thị sát chiến trường, 12 sĩ quan tham mưu, trong đó có Lambert, đại tá, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Đông Dương thiệt mạng. Việt Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc của trung đoàn đã chạy bộ, vượt rừng, mang "bản kế hoạch tiến công Việt Bắc" về cho Bộ Tổng chỉ huy.
 
Ngày 13 tháng 10, Bộ Tổng chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh, tổ chức lại lực lượng. Lực lượng gồm các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và khu. Cụ thể:
* Mặt trận Sông Lô - Đường số 2 do các Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo. Nhiệm vụ đánh quân thủy, bộ vận động, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ gãy gọng kìm phía tây.
* Mặt trận Bắc Cạn - Đường số 3 do Hoàng Văn Thái phụ trách. Nhiệm vụ tiêu diệt địch cơ động trên đường Bắc Cạn - Cao Bằng và nống ra xung quanh thị xã Bắc Cạn; bảo vệ cơ quan Trung ương.
* Mặt trận đường số 4 do Võ Nguyên Giáp trực tiếp theo dõi, chỉ đạo.
Chiều ngày 14 – 10, Thường vụ Trung ương Đảng họp thông qua Chỉ thị: ''"Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp."'' Hội nghị nhận định: nếu biết lợi dụng khai thác những chỗ yếu của Pháp thì nhất định cuộc tiến công sẽ thất bại. Thường vụ nhất trí thực hiện ngay công thức "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", nhất trí tổ chức ba mặt trận như báo cáo của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp. Kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ''"Tình hình cực kỳ rối ren về chính trị ở Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp đến chỗ muốn sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu. Nếu ta thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó, chúng sẽ thất bại. Ta giữ gìn được chủ lực qua mùa đông này là coi như thắng lợi. Nếu chuyến này không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới có lợi cho ta"''
 
Trên khắp các mặt trận, quân Việt Minh chiến đấu anh dũng, ngăn chặn và đẩy lui bước tiến của quân Pháp, đặc biệt là thủy binh. Ngày 15 tháng 10, hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ có một khẩu đội pháo phối hợp, tiến công vào 200 quân Pháp đóng tại Chợ Mới. Ngày 21, một tiểu đoàn của Trung đoàn Thủ đô tiến công một đại đội Pháp đóng trong Chợ Đồn. Ngày 22, tự vệ thị xã Tuyên Quang dùng địa lôi đánh phục kích ở ki-lô-mét số 7 trên quốc lộ 2, diệt và làm bị thương gần 100 tên địch. Cùng với đó là 17 trận phục kích nhỏ trên đường Phủ Thông - Bắc Cạn, Chợ Mới - Bắc Cạn, đã làm cho quân Pháp nhụt chí, không dám sục sạo rộng ra ngoài vị trí đóng quân.
 
Nhận rõ chỗ yếu chí mạng của Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương ''"Đánh mạnh ở Mặt trận Sông Lô và đường 4, phá giao thông vận tải tiếp tế của địch, kết hợp chặt việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống, triệt nguồn tiếp tế tại chỗ của địch"''.
 
Pháo binh thực hiện nghi binh, cơ động linh hoạt, bố trí sát bờ sông, đã đánh hai trận phục kích vào trưa 24 tháng 10: một đoàn tàu Pháp năm chiếc từ Tuyên Quang xuống đến Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của Trung đội pháo binh Xuân Canh (Trung đội Pháo đài Xuân Canh - Hà Nội 12-1946) và Trung đội Lục tỉnh. Khi tàu chiến Pháp đổ bộ lên bờ sông thì bị bộ đội Việt Minh phục kích bằng vũ khí hạng nặng (như sơn pháo, Bazoka...), bị bắn chìm tại chỗ hai chiếc, toàn bộ quân Pháp trên tàu chết đuối; bắn hỏng nặng hai chiếc khác. Chiếc còn lại quay đầu về Tuyên Quang. Sau trận này, tuyến đường sông Lô bị cắt 10 ngày, Pháp phải thả dù tiếp tế cho Tuyên Quang và Chiêm Hoá. Báo chí Pháp gọi đây là "Thảm hoạ Đoan Hùng".
 
Ngày 29 tháng 10, tiểu đoàn 374 trung đoàn 11 tổ chức trận địa phục kích đoạn đường Bản Sao - đèo Bông Lau. Tại đèo Bông Lau, đoàn xe 30 chiếc của quân Pháp lọt vào ổ phục kích của bộ đội và chịu thương vong khá lớn. Cả đoàn xe, có cảxe bọc thép hộ tống, với khoảng 250 binh lính bị diệt và bị bắt (một số ít bỏ chạy vào rừng sâu). Bộ đội thu chiến lợi phẩm rồi đốt xe, Việt Minh chỉ mất một chiến sĩ, bị thương năm người.
 
Kinh nghiệm đánh hai trận Sông Lô và Bông Lau nhanh chóng được phổ biến trên toàn chiến trường Việt Bắc, mở đầu cho hàng loạt trận phục kích lớn sau này. Bộ Tổng chỉ huy quyết định tặng danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau" cho tiểu đoàn 374.
 
Do sự chống trả quyết liệt của Việt Minh mà cuộc tiến công diễn ra không thuận lợi, hai mũi tiến công đã không hợp vây được với quân nhảy dù.
 
Việt Minh liên tiếp tấn công trên Mặt trận Đường số 3, Mặt trận Đường số 4, Mặt trận Sông Lô. Quân đội Việt Minh đã chủ động bao vây và tiến công quân Pháp ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông (nay thuộc Bắc Kạn)... Quân Pháp buộc phải rút lui cục bộ: ngày 28-10 rời bỏ Bản Thi, Yên Thịnh. Ngày 13-11 rút khỏi Chợ Đồn, ngày 16 rút khỏi Chợ Rã, Ngân Sơn. Kế hoạch Lê-a bị phá sản.
 
=== Giai đoạn 2[sửa | sửa mã nguồn] ===
Ngày 20-11, Pháp mở đợt tấn công mới Xanh-tuya. Từ ngày 19-11 đến ngày 14-12-1947 quân Pháp hành quân càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Phủ Lạng Thương - Việt Trì, nơi trú đóng của các cơ quan chính phủ Việt minh, phá vỡ đài phát thanh, bắt được máy in giấy bạc, nhiều dụng cụ khí giới đủ loại, súng cá nhân, súng tự động và đại bác, bắt giữ hơn 1.000 người Việt, giải thoát các con tin người Pháp, chiếm lại được mỏ kẽm Tĩnh Túc (Cao bằng) và mỏ chì (Tuyên Quang) và có tin đồn là họ đã suýt bắt được cơ quan đầu não của Việt minh. Về sau có một giai thoại nói rằng: ''"Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng rồi quân Pháp đi qua không trông thấy nên hai người thoát được."''
 
Quân Pháp thiệt hại khá nhiều, nhất là bộ binh của đại tá Beaufre. Qua cơn bất ngờ lúc đầu, bộ đội Việt minh tổ chức các ổ phục kích trên đường thuộc địa số 4 (RC4) Lạng Sơn - Cao Bằng, đánh các đoàn công-voa và các đồn bót do Pháp đặt rải rác để giữ trục giao thông đó. Trong Đợt 2, Quân Việt Minh đánh trên sông Gâm đoạn từ Chiêm Hóa về Tuyên Quang, phủ Lạng Thương, Km 6 Đường Tuyên Quang – Hà Giang. Pháp phải rút khỏi thị xã Tuyên Quang, Chợ Chu.
 
Nhiều chiến trường khác có những hoạt động chiến đấu phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Ở Hà Nội, biệt động hoạt động mạnh trong nội thành, diệt trừ Trương Đình Tri, thủ hiến Bắc kì Việt Nam. Du kích quấy rối ở Chèm, Cầu Giấy, Văn Điển,Vĩnh Tuy. Đại đội độc lập phối hợp với du kích tập kích ở Đan Phượng, Hoài Đức và Cần Kiệm (Thạch Thất). Cuộc tổng phá tề ở ngoại thành Hà Nội đã bắt giữ gần 300 tề. Ở nam phần Bắc Ninh, toàn bộ tề bị phá. Khu 14, bộ đội Tây tiến giải phóng Chiềng Sai. Ở Nam Bộ, bộ đội Gia Định phục kích tại Gò Nổi. Nửa đêm 14 tháng 11 năm 1947, tất cả các vị trí Pháp ở ven Sài Gòn: Thị Nghè, Gia Định, Gò Vấp, Bến Cát, Bà Quẹo, Bà Điểm, Phú Lộc, Phú Thọ, Ngã Năm v.v... đều bị tập kích. Bộ đội Thủ Dầu Một đánh phục kích ở Phú Văn Hưng. Trận phục kích trên đường Thủ Dầu Một - Phú Riềng phá 10 xe, diệt 60 lính Pháp. Ở Biên Hoà, Lộc Ninh, Tây Ninh, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, nhiều vị trí bị tập kích.
 
Đêm 30 tháng 11, tiểu đoàn 160 cùng với một đại đội thuộc trung đoàn 72 và du kích thị xã Bắc Cạn tập kích đồn Phủ Thông, diệt 50 lính. Đây là trận đầu tiên quân Pháp bị diệt trong công sự.
 
Sau khi không thể hợp vây, các chỉ huy Pháp quyết định rút lui khỏi Việt Bắc trong tháng 12. Ngày 6 tháng 12 rút khỏi Định Hoá; 7 tháng 12, rút Võ Nhai. Nắm chắc thời cơ, ngày 15 tháng 12, bộ đội trung đoàn 165 đánh trận phục kích xuất sắc tại đèo Giàng, phá huỷ 17 xe, diệt 60 lính, thu hai triệu tiền Đông Dương và nhiều vũ khí, quân dụng. Các cánh quân Pháp trên đường rút chạy đều bị đánh thiệt hại. Ngày 19 tháng 12, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Cuộc hành quân kết thúc.
 
== Kết quả[sửa | sửa mã nguồn] ==
Toàn chiến dịch, Việt Minh tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 6.000 lính Pháp và lính Việt phục vụ Pháp, bắt hơn 270 lính. 18 máy bay bị bắn hạ, 16 tàu chiến, 38 ca nô bị đánh chìm, 255 xe các loại bị phá hủy. Việt Minh thu 2 pháo 105 mm, 7 pháo 75mm, 16 khẩu pháo 20mm, 337 súng các cỡ, 45 bazooka, 1600 súng trường, hàng chục tấn quân trang quân dụng. Việt Minh hy sinh 260 người, bị thương 168 người, hỏng 1 pháo 75mm, mất 4 trung liên và 40 súng trường. Việt Minh hoàn thành nhiệm vụ đề ra: phá tan cuộc tấn công mùa đông của Pháp, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, bảo toàn và nâng cao sức chiến đấu của bộ đội chủ lực, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc.
 
Sau thất bại này, người Pháp không thể tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh để kết thúc sớm cuộc chiến ở Đông Dương. Các đơn vị tinh nhuệ của Việt Minh vẫn được giữ vững. Họ phải chuyển từ chính sách đánh nhanh thắng nhanh sang đánh lâu dài với chiến lược Da vàng hóa chiến tranh - thành lập một chính phủ bù nhìn để ''"dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"''. Trong khi đó lực lượng Việt Minh mạnh lên vì thu giữ được một số lượng lớn trang bị của Pháp.
 
Chiến dịch Việt Bắc được xem là thắng lợi lớn đầu tiên của Việt Minh trong cuộc chiến, đánh đổ kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp<sup>[4]</sup>. Nhưng dù sao Pháp đã thành công trong việc chiếm giữ Đường số 4 và kiểm soát biên giới Việt-Trung. Việt Minh sẽ phải đổ nhiều máu để chiếm giữ lại con đường này trong năm 1950.
{| class="navbox"
|
{| class="nowraplinks collapsible autocollapsed navbox-inner"
! colspan="2" |[ẩn]
* x
* t
* s
Chiến tranh Đông Dương
|-
| colspan="2" |
|-
!Tham chiến
|
{| class="nowraplinks navbox-subgroup"
!Liên hiệp Pháp
<small>{Chỉ huy}</small>
|Pháp (Quân đội viễn chinh  • Lính người Việt)  • Liên bang Đông Dương: Quân đội Quốc gia Việt Nam  •Quân đội Vương quốc Lào  • Quân đội Hoàng gia Campuchia  • Bộ đội Cao Đài  •Bộ đội Dân Xã Hòa Hảo  • Bộ đội Bình Xuyên  • Xứ Mường  • Xứ Nùng  • Xứ Thái  • Xứ Thổ  • Xứ Thượng  •Công giáo Bùi Chu-Phát Diệm
Hỗ trợ: Trung Hoa Dân Quốc  • Quân đội Anh  • Nhật Bản  • Ấn Độ thuộc Anh  • Hoa Kỳ (MAAG)
|-
| colspan="2" |
|-
!Việt Nam
<small>{Chỉ huy}</small>
|Quân đội Nhân dân Việt Nam  • Chiến sĩ "Việt Nam mới"  • Bộ phận Bình Xuyên chống Pháp  • Pathet Lào • Campuchia Issarak
Hỗ trợ: Liên Xô  • Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa  • Đông Âu
|}
|-
| colspan="2" |
|-
!Diễn biến
|
{| class="nowraplinks navbox-subgroup"
!Nguyên
nhân
|Chiến tranh Đại Nam-Pháp  • Pháp thuộc  • Phong trào Giải phóng Dân tộc Việt Nam  •Việt Nam trong Thế chiến II  • Cách mạng tháng Tám  • Việt Nam độc lập
|-
| colspan="2" |
|-
!1945-1947
|Masterdom  • '''Nam Bộ kháng chiến'''  • Sài Gòn  • Nam tiến  • Gaur  • Hoa quân nhập Việt  • Lai Châu  •Hải Phòng  • Bắc Ninh  • Lạng Sơn  • Đà Nẵng  • ''Un scénario de coup d'Etat''  • '''Toàn quốc kháng chiến'''  •'''Hà Nội '46'''  • Huế  • Nghệ An  • Nam Định  • Đà Nẵng  • Hà Đông  • ''''''Việt Bắc '47''''''
|-
| colspan="2" |
|-
!1948-1950
|Véga  • La Ngà  • Nghĩa Lộ '48  • Tầm Vu  • Đường 5  • Yên Bình xã  • Đường 3  • Phủ Thông  • Đông Bắc I  •Đường 4  • Xuân Đai  • Khu V  • Sông Đà  • Quảng Đà  • Lao Hà  • Vật Lại  • Đông Bắc II  • Cao-Bắc-Lạng  •Sông Lô  • Sông Thao  • Thập Vạn Đại Sơn  • Quảng Nam  • Mỹ Tho  • Lê Lai  • Lê Lợi  • Nam Khánh Hoà  •Sông Mã  • Cầu Kè  • Võ Nguyên Giáp  • Cầu Ngang  • Sơn Hà  • Cao Lãnh  • Lê Hồng Phong  • Trà Vinh  •Sóc Trăng I  • Phan Đình Phùng  • Bến Tre  • Hoàng Diệu  • Đắk Lắk  • '''Biên giới'''  • Amyot D'Inville  •Long Châu Hậu  • Bến Cát
|-
| colspan="2" |
|-
!1950-1954
|'''Trần Hưng Đạo-Trung du'''  • Vĩnh Yên  • Bình Liêu  • '''Hoàng Hoa Thám-Đường 18'''  • Mạo Khê  •'''Quang Trung-Đồng bằng'''  • Tràng Bỏm  • Lý Thường Kiệt  • Mandarine  • Tulipe  • '''Hòa Bình'''  • Tu Vũ  •Amphibie-Mercure  • Bretagne  • Camargue  • Adolphe  • Concarneau  • Tarentaise  • Brochet  • '''Tây Bắc'''  •Nghĩa Lộ  • Lorraine  • Sơn La  • Nà Sản '52  • An Khê  • '''Thượng Lào '52'''  • Mường Khoa  • Hirondelle  •Nà Sản '53  • Mouette  • Castor  • Lai Châu  • Trung Lào  • '''Đông Xuân'''  • Hạ Lào  • Atlante  • Bắc Tây Nguyên  •Thượng Lào '54  • '''Điện Biên Phủ'''  • Đồng bằng Bắc Bộ  • Phú Thọ Hòa  • Đắk Pơ
|}
|-
| colspan="2" |
|-
!Chính trị<br>
Ngoại giao
|
{| class="nowraplinks navbox-subgroup"
!Ngoại giao
|Diệt Cộng cầm Hồ  • Hoa-Pháp  • Hiệp định Sơ bộ  • Đà Lạt  • Fontainebleau  • Hội nghị Liên bang  •Tạm ước Fontainebleau  • Tối hậu thư Morlière  • Paul Mus  • Thỏa thuận vịnh Hạ Long  • Hiệp ước Élysée  •Biến động ngoại giao năm 1950  • Campuchia  • Lào  • Hiệp định Phòng thủ chung  •Hiệp ước Hợp tác Kinh tế Việt-Mỹ  • Hiệp ước Matignon  • Hiệp định Genève  • Hội nghị Quân sự Trung Giã  •Ngừng bắn
|-
| colspan="2" |
|-
!Chính trị
|Sự bảo hộ của Nhật Bản  • Tuyên bố De Gaulle  • Bảo Đại thoái vị  • Tuyên ngôn độc lập  •Nền chính trị trong năm 1945 và 1946  • Chính phủ Liên hiệp Lâm thời  • Bầu cử Quốc hội  •Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến  • Chính phủ Liên hiệp Quốc dân  • Vụ Ôn Như Hầu  • Nam Kỳ tự trị  •Chiến dịch phá tề  • Chính phủ Trung ương lâm thời  • Phong hàm sĩ quan  •Đại hội II Đảng Cộng sản Việt Nam
|-
| colspan="2" |
|-
!Phong trào
quần chúng
|Biểu tình Sài Gòn  • Toàn quốc chống Mỹ  • Bãi công Hà Tu  • Biểu tình Khánh Hòa  • Biểu tình Hải Phòng  •Tuyên ngôn hòa bình trí thức Sài Gòn-Chợ Lớn
|}
|-
| colspan="2" |
|-
!Khác
|
{| class="nowraplinks navbox-subgroup"
!Chiến lược
quân sự
|Du kích vận động chiến  • Chiến tranh nhân dân  • Kế hoạch Roger  • Hành lang đông-tây  •Kế hoạch De Lattre de Tassigny  • Phòng tuyến Tassigny  • Da vàng hóa chiến tranh  • Kế hoạch Navare  •Chiến thuật "đánh chắc thắng"
|-
| colspan="2" |
|-
!Ném bom
|Vulture  • Condor
|-
| colspan="2" |
|-
!Tổn thất
|Thiệt hại của Pháp  • Thiệt hại của Việt Nam  • Viện trợ của Mỹ
|-
| colspan="2" |
|-
!Tội ác
|Thảm sát Hàng Bún  • Thảm sát Cát Bay • Thảm sát Mỹ Trạch
|-
| colspan="2" |
|-
!Hậu quả
|Sự tham gia của Mỹ  • Chia cắt Việt Nam  • Giới tuyến Bến Hải  • Di cư năm 1954  • Chiến tranh Việt Nam  •Văn học nghệ thuật
|}
|}
|}
 
==Liên khu và Quân khu==
Hàng 237 ⟶ 22:
==Khu tự trị==
[[Khu tự trị Việt Bắc]] ban đầu có 5 tỉnh: [[Cao Bằng]], [[Bắc Kạn]], [[Lạng Sơn]], [[Tuyên Quang]], [[Thái Nguyên]], sau thêm tỉnh [[Hà Giang]]. Khu tự trị Việt Bắc cùng với [[khu tự trị tây bắc]] là hai khu vực có nhiều [[dân tộc thiểu số]] sinh sống, với những chính sách đối xử và ưu tiên phát triển riêng cho vùng này.
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
==Tham khảo==
 
==Liên kết ngoài==
*[http://www.tienphong.vn/Thoi-Su/188156/Thu-do-gio-ngan-o-dau.html 'Thủ đô gió ngàn' ở đâu?,báo Tiền phong]
{{sơ khai lịch sử}}
 
[[Thể loại:Địa danh cũ Việt Nam|V]]