Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Constantinus Đại đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Liên kết ngoài: clean up, replaced: {{Commonscat → {{thể loại Commons using AWB
n AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:40.2870283
Dòng 40:
[[Tập tin:Constantian Dynasty, the children of Constantius.png|nhỏ|trái|Constantine's parents and siblings. Dates in square brackets indicate the possession of minor titles, like "[[Caesar (title)|Caesar]]".]]
[[Tập tin:Medijana.jpg|nhỏ|200px|The remains of luxurious residence palace of [[Mediana]], which was erected by Constantine I near his birth town of [[Naissus]].]]
Flavius Valerius Aurelius Constantinus được sinh ra ở Naissus (nay là [[Niš]], [[Serbia]]) ở tỉnh [[Moesia|Moesia Superior]] vào [[27 tháng 2]] khoảng 280. Cha của ông là [[Constantius Chlorus|Flavius Constantius]], một cư dân bản địa của Moesia (sau này là [[Dacia Ripensis]]).<ref name="CTCR">Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 3; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 59–60; Odahl, 16–17.</ref> Constantinus có thể đã dành ít thời gian với cha mình.<ref>MacMullen, ''Constantine'', 21.</ref> Constantius đã là một sĩ quan trong quân đội La Mã vào năm 272, thành viên trong lực lượng cận vệ hoàng gia của Hoàng đế [[Aurelianus]]. Constantius đã thăng tiến qua nhiều cấp bậc, ông ta đã nhận được chức [[Thống đốc]] [[Dalmatia (Tỉnh La Mã)|Dalmatia]] dưới triều đại Hoàng đế [[Diocletianus]], một người đồng hương khác của Aurelianus từ Illyricum, vào năm 284 hoặc 285<ref name="CTCR">Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 3; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 59–60; Odahl, 16–17.</ref>. Mẹ ông là [[Thánh Helena|Helena]]. Helena, người có ảnh hưởng to lớn xuyên suốt cuộc đời của con trai, xuất thân từ một gia đình khiêm tốn; [[Ambrose]] viết rằng bà làm việc trong một quán rượu.
 
Trong năm 285, Diocletianus đã tuyên bố Maximianus, một đồng nghiệp đến từ Illyricum, là đồng hoàng đế của ông ta. Mỗi hoàng đế sẽ có triều đình riêng của mình, quân đội và bộ máy hành chính riêng, và mỗi người sẽ cai trị cùng với một [[praetorian prefect]] riêng biệt.<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 8–14; Corcoran, "Before Constantine" (CC), 41–54; Odahl, 46–50; Treadgold, 14–15.</ref>. Maximianus cai trị ở phía Tây, từ kinh đô của ông ta tại [[Mediolanum]] (Milan, Italy) hoặc [[Augusta Treverorum]] ([[Trier]], Đức), trong khi Diocletianus cai trị ở phía Đông, từ [[Nicomedia]] ([[İzmit]], Thổ Nhĩ Kỳ). Việc phân chia chỉ đơn thuần là sự thực dụng: Đế quốc vẫn được coi là "không hề chia tách" trong những bài văn ca ngợi chính thức,<ref>Bowman, 70; Potter, 283; Williams, 49, 65.</ref> và cả hai vị hoàng đế có thể tự do di chuyển khắp đế quốc <ref>Potter, 283; 2Williams, 49, 65.</ref> Năm 288, Maximianus bổ nhiệm Constantius vào chức vụ praetorian prefect của ông ta ở Gaul. Constantius sau đó bỏ vợ vào khoảng năm 288 hoặc 289 để thành hôn với [[Flavia Maximiana Theodora]],<ref name="marriage">Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 3; Elliott, ''Christianity of Constantine'', 20; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 59–60; Odahl, 47, 299; Pohlsander, ''Emperor Constantine'', 14.</ref> con gái riêng của [[Hoàng đế Tây La Mã]] [[Maximian]], mặc dù vậy Constantinus đã tái lập mẹ ông, [[thánh Helena|bà Helena]], như là "Augusta, mẹ của Caesar" sau khi cha ông qua đời. Theodora cho ra đời sáu người anh em kế của Constantine, trong đó có cả [[Julius Constantius]].<ref>Pohlsander, Hans, ''The Emperor Constantine'', pp. 12–13 & p. 71, figure 9.</ref>
Dòng 382:
[[Thể loại:Bài cơ bản dài]]
[[Thể loại:Sinh thế kỷ 3]]
[[Thể loại:Thánh Chính Thống giáo Đông phương]]