Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Destiny's Child”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung, Excuted time: 00:00:46.7816777
n AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung, Excuted time: 00:00:44.7500835
Dòng 39:
=== 1990–1997: Bắt đầu sự nghiệp và Girl's Tyme ===
[[Tập tin:Girls-tyme.jpg|nhỏ|phải|200px|Những thành viên của nhóm [[Girl's Tyme]]]]
Vào năm 1990, [[Beyoncé Knowles]] gặp rapper [[LaTavia Roberson]] trong khi họ đang thi cuộc thi tuyển chọn ca sĩ cho một nhóm nhạc.<ref name="Kaufman">{{chú thích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> tại [[Houston, Texas|Houston]], [[Texas]], nơi họ gia nhập nhóm, biểu diễn rap và nhảy. Sau đó, [[Kelly Rowland]], người đã phải di chuyển đến nhà của Knowles vì một số vấn đề gia đình, cũng đã gia nhập nhóm vào năm 1991. Ban đầu nhóm mang tên gọi là [[Girl's Tyme]] với sáu thành viên, trong đó có [[Támar|Támar Davis]] và hai chị em Nikki và Nina Taylor.<ref name="E!">{{Cite video |title=Beyonce: All New |work=E! Online |accessdate = ngày 21 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="People">{{chú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate = ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Nhờ Knowles và Rowland, nhóm Girl's Tyme giành được sự chú ý trên toàn quốc:<ref name="E!"/> nhà sản xuất R&B Arne Frager từ bờ biển phía Tây đã phải bay đến Houston để gặp mặt nhóm. Anh đưa họ đến phòng thu The Plant Recording Studios, tại [[Bắc California]], và anh khá chú ý đến giọng hát của Knowles nhờ vào tính cách cũng như khả năng ca hát của cô.<ref name="E!"/> Sau khi ký hợp đồng thu âm với Frager, nhóm đã tập luyện để có thể thi đấu trong chương trình tìm kiếm tài năng nổi tiếng thời điểm ấy, ''[[Star Search]]''.<ref name="E!"/> Nhưng đáng tiếc rằng họ đã bị loại khỏi cuộc thi, mà theo Knowles, ca khúc dự thi của họ là một chọn lựa sai lầm<ref>{{chú thích báo |last=Farley |first=Christopher John |title=Call Of The Child |url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,998976,00.html |work=Time |date = ngày 15 tháng 1 năm 2001 |accessdate = ngày 12 tháng 4 năm 2008}}</ref> vì thực ra họ đã phải rap thay vì hát.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Cha của Knowles, [[Mathew Knowles|Mathew]], đã tự nguyện trở thành [[người quản lý]] của nhóm.<ref name="E!"/><ref name="VH1Driven">{{chú thích web |title=Driven: Beyonce Knowles |url=http://www.vh1.com/shows/dyn/driven/65240/episode_about.jhtml |work=VH1 |publisher=MTV Networks |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Mathew Knowles đã loại Davis cùng chị em Taylor và thay thế bằng [[LeToya Luckett]] vào năm 1993, khiến nhóm còn lại bốn thành viên.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="E!"/> Ngoài việc dành thời gian đến nhà thờ ở Houston, Girl's Tyme còn tập luyện ở vườn sau nhà và tiệm Salon Headliners của mẹ Knowles, Tina. Nhóm cũng đã trình diễn tại Đại lộ Montrose ở Houston, nơi có tiệm của mẹ Knowles, và đôi khi nhận được tiền boa của các khách hàng. Trong lúc đi học, Girl's Tyme thường trình diễn tại những sân khấu địa phương. Đến hè, Mathew Knowles đã mở một trại hè và cùng nhóm tập luyện vũ đạo và luyện thanh rất khắc nghiệt.<ref name="DunnDate">{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date = ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate = ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Sau những buổi tập luyện, họ bắt đầu trình diễn các tiết mục mở màn cho những nhóm [[Rhythm and blues|R&B]] đã thành lập như [[SWV]], [[Dru Hill]] và [[IMx|Immature]].<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Tina Knowles đã thiết kế trang phục cho những màn trình diễn của nhóm và luôn luôn sát cánh bên họ, trong khi đó, cô để lại tiệm salon của mình cho cô bạn thân, Vernell Jackson, quản lý một thời gian ngắn.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref>
 
Sau vài năm, Girl's Tyme thay đổi tên của nhóm liên tục thành Something Fresh, Cliché, the Dolls, và Destiny.<ref name="GillingsSoul">{{chú thích báo|url=http://www.essence.com/2001/04/22/destinys-child-soul-survivors/|title=Destiny's Child: Soul-Survivors|last=Gillings|first=Andrew|date = ngày 22 tháng 4 năm 2001 |work=Essence|accessdate = ngày 21 tháng 7 năm 2011}}</ref> Nhóm đã ký hợp đồng với hãng [[Elektra Records]] nhưng sau đó họ đã hủy hợp đồng vài tháng sau trước khi họ có thể phát hành album.<ref name="VH1Driven">{{citechú thích web |title=Driven: Beyonce Knowles |url=http://www.vh1.com/shows/dyn/driven/65240/episode_about.jhtml |work=VH1 |publisher=MTV Networks |accessdate =2008-05- ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Việc theo đuổi hợp đồng thu âm này đã ảnh hưởng đến gia đình nhà Knowles: năm 1995, Mathew từ bỏ công việc buôn bán thiết bị y tế,<ref name="E!"/> điều làm giảm thu nhập nhà Knowles đi một nửa, và bố mẹ cô đã li thân thời gian ngắn do áp lực.<ref name="E!"/><ref name="VH1Driven">{{citechú thích web |title=Driven: Beyonce Knowles |url=http://www.vh1.com/shows/dyn/driven/65240/episode_about.jhtml |work=VH1 |publisher=MTV Networks |accessdate =2008-05- ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Sau những vấn đề rắc rối gia đình, năm 1996, họ cuối cùng đổi tên thành Destiny's Child, được trích từ một đoạn [[Cuốn sách của Tiên tri Isaia]].<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="GillingsSoul">{{citechú newsthích báo|url=http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors|title=Destiny's Child: Soul-Survivors|last=Gillings|first=Andrew|date =2001-04- ngày 22 tháng 4 năm 2001 |work=Essence|accessdate =2009-02- ngày 25 tháng 2 năm 2009 | archivedate= Octoberngày 15, tháng 10 năm 2008 | archiveurl = https://web.archive.org/web/20081015053632/http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors}}</ref>
 
Mathew Knowles đã giúp nhóm đàm phán với hãng thu [[Columbia Records]] vào năm 1997<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="People">{{citechú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> và họ đã thu âm vài ca khúc ở [[Oakland, California]] trước khi ký hợp đồng với Columbia, một trong số đó là "Killing Time", ca khúc được sản xuất bởi [[Dwayne Wiggins]] từ nhóm [[Tony! Toni! Toné!]], và được hãng thu nhận xét là "chất lượng độc nhất vô nhị". Bài hát đồng thời được kèm theo trong bộ phim năm 1997 ''[[Men in Black (phim)|Men in Black]]''.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="Stacy-Deanne">{{chú thích sách |last=Stacy-Deanne |coauthors=Kenyatta, Kelly; Lowery, Natasha |title=Alicia Keys, Ashanti, Beyonce, Destiny's Child, Jennifer Lopez & Mya: Divas of the New Millennium |url=http://books.google.com/books?id=1ZGMcUEvkyEC&pg=PA60&dq=Baby+Boy+by+Beyonce&lr=&as_brr=0&sig=H1TzeKTzJqsBqow_O7HLlQZ4VuM#PPA61,M1 |publisher=Amber Books Publishing |year=2005 |isbn=0-9749779-6-9 |accessdate = ngày 1 tháng 2 năm 2008}}</ref> Sau thành công của mình, nhóm đã phát hành đĩa đơn đầu tay mang tên "[[No, No, No (bài hát của Destiny's Child)|No, No, No]]", vào ngày 11 tháng 11 năm 1997 tại Mỹ.
 
=== 1998–2000: Bứt phá và cắt giảm thành viên ===
[[Tập tin:Wyclefjean (300dpi).jpg|nhỏ|trái|180px|[[Wyclef Jean]] là người phối lại ca khúc "[[No, No, No (bài hát của Destiny's Child)|No, No, No]]", giúp đĩa đơn đầu tiên của nhóm Destiny's Child thành công vang dội.]]
Destiny's Child sau đó đã quyết định phát hành album đầu tiên của mình, được [[Destiny's Child (album)|lấy tên của nhóm]] và được phát hành vào ngày 17 tháng 2, 1998, thực hiện bởi năm nhà sản xuất nổi tiếng là [[Rob Fusari]], [[Jermaine Dupri]], [[Wyclef Jean]], [[Dwayne Wiggins]] và Corey Rooney.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> ''Destiny's Child'' đứng vị trí 67 trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] và vị trí 40 trên bảng ''Billboard'' [[Top R&B/Hip-Hop Albums]].<ref name="BillAlbumChart">{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/artist/destiny-s-child/chart-history/248498#/album/destiny-s-child/destiny-s-child/281764|title=Destiny's Child - Destiny's Child (2008)|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate = ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> Đến nay album đã bán tổng cộng một triệu bản tại Hoa Kỳ, trở thành album Bạch kim do tổ chức [[Hiệp hội Thu âm Hoa Kỳ]] (RIAA) chứng nhận.<ref name="RIAA">{{chú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate = ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> Phiên bản phối lại của đĩa đơn đầu tiên, "[[No, No, No (bài hát của Destiny's Child)|No, No, No]]", leo lên dẫn đầu trên bảng xếp hạng ''[[Billboard]]'' [[Hot R&B/Hip-Hop Singles & Tracks]] và vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]]. Trong nước, đĩa đơn bán tổng cộng một triệu bản và được chứng nhận đĩa Bạch kim bởi RIAA.<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> Tiếp đó, nhóm tiếp tục phát hành hai đĩa đơn mới là "[[With Me (bài hát của Destiny's Child)|With Me Part 1]]" và "[[Get on the Bus (bài hát)|Get on the Bus]]" nhưng không được thành công bằng "No, No, No". Vào năm 1998, Destiny's Child đã nhận được ba giải Soul Train Lady of Soul,<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> trong đó có hạng mục Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất cho "No, No, No". Knowles công nhận album đầu tay đã là một thành công của nhóm nhưng lại không được vang dội khi cô cho rằng đó là một bản thu theo thể loại [[neo soul]] và điều đó lại quá già dặn so với lứa tuổi 15 của họ.<ref name="Anthony">{{chú thích báo |last=Anthony |first=James |title='Of course you can lose yourself' |url=http://www.guardian.co.uk/music/2006/aug/18/urban.popandrock|work=The Guardian |date = ngày 18 tháng 8 năm 2006 |accessdate = ngày 21 tháng 7 năm 2011 | location=London}}</ref>
 
Sau thành công của album đầu tay, Destiny's Child nhanh chóng quay trở lại phòng thu cùng một dàn nhà sản xuất khác, trong đó có [[Kevin "She'kspere" Briggs]]<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> và [[Rodney Jerkins]]. Họ tiếp tục phát hành album mới là ''[[The Writing's on the Wall]]'' vào ngày 27 tháng 7, 1999 và trở thành album đột phá của họ.<ref name="Anthony">{{cite news |last=Anthony |first=James |title='Of course you can lose yourself' |url=http://arts.guardian.co.uk/filmandmusic/story/0,,1852025,00.html |work=The Guardian |date=2006-08-18 |accessdate=2008-05-13 | location=London}}</ref> ''The Writing's on the Wall'' đứng vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200 và vị trí á quân trên bảng xếp hạng R&B đầu năm 2000.<ref name="BillAlbumChart">{{citechú thích web|url={{BillboardURLbyName|artist=destiny's child|chart=all}}|title=Artist Chart History – Destiny's Child|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> "[[Bills, Bills, Bills]]" sau đó đã được phát hành với tư cách là đĩa đơn quán quân vào năm 1999, đứng đầu tại ''Billboard'' Hot 100, và trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên tại Mỹ của họ.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> ''The Writing's on the Wall'' đã được ghi nhận như là album đột phá của Destiny's Child, thúc đẩy sự nghiệp và đưa tên tuổi của họ đến với đông đảo công chúng hơn.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref><ref name="FlynnLose">{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2006/aug/18/urban.popandrock|title='Of course you can lose yourself'|last=Flynn|first=Paul|date = ngày 18 tháng 8 năm 2006 |work=The Guardian|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Nhưng chìa khóa thành công của album này chính là nhờ đĩa đơn thứ ba mang tên "[[Say My Name]]",<ref name="FlynnLose">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2006/aug/18/urban.popandrock|title='Of course you can lose yourself'|last=Flynn|first=Paul|date =2006-08- ngày 18 tháng 8 năm 2006 |work=The Guardian|accessdate =2009-02- ngày 26 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> ca khúc chiếm vị trí số 1 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 đến ba tuần liên tiếp. Sự phát hành thành công những đĩa đơn trên đã củng cố cho doanh thu của album,<ref name="People">{{citechú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="PowersFeminism">{{chú thích báo|url=http://www.nytimes.com/2001/04/29/arts/29POWE.html?ex=1235883600&en=ceac7e7d023ccf18&ei=5070|title=Destiny's Child: In Tune With the New Feminism|last=Powers|first=Ann|date = ngày 29 tháng 4 năm 2001 |work=The New York Times|accessdate = ngày 27 tháng 2 năm 2009}}</ref> cuối cùng bán được hơn 8 triệu bản ở Hoa Kỳ giành 8 đĩa bạch kim bởi RIAA,<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> còn album ''The Writing's on the Wall'' đã bán được tổng cộng 15 triệu bản toàn thế giới và trở thành một trong những album thành công nhất năm 2000.<ref name="musicstarx.net">{{chú thích web|url=http://www.musicstarx.net/biography/biography-destinys-child/|title=Destiny's Child Biography and Sales}}</ref>
 
[[Tập tin:Michelle Williams on stage at J&R's Musicfest.jpg|nhỏ|upright|220px|[[Michelle Williams (ca sĩ)|Michelle Williams]] tham gia nhóm nhạc nhằm thay thế Luckett và Roberson.]]
Vào tháng 11 năm 1999, Luckett và Roberson đã cố gắng cắt đứt với quản lý của họ, cho rằng ông đã giữ một phần không đều lợi nhuận của nhóm nhạc, và thiên vị cho Knowles và Rowland.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong khi họ chưa có ý định rời nhóm, khi video ca nhạc của "[[Say My Name]]" ra mắt vào tháng 2 năm 2000, họ đã phát hiện ra rằng nhóm sẽ có hai thành viên mới thay thế họ và sẽ gia nhập cùng Knowles và Rowland.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Đến khi trình chiếu video, Knowles đã tuyên bố rằng hai thành viên Luckett và Roberson đã rời khỏi nhóm trên chương trình ''[[Total Request Live|TRL]]''.<ref name="People">{{citechú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Nhóm đã thay thế hai thành viên mới là [[Michelle Williams (ca sĩ)|Michelle Williams]], người vừa chấm dứt công việc của mình với [[Monica (ca sĩ)|Monica]], [[Farrah Franklin]], một người có tham vọng trở thành ca sĩ kiêm diễn viên.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Trước khi nghỉ việc, Williams đã được giới thiệu đến Destiny's Child bởi một người bạn biên đạo múa, cô đã bay đến Houston để sống tại nhà của gia đình Knowles.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref>
 
Vào tháng 3 năm 2000, Roberson và Luckett đã kiện ông Mathew Knowles và nhóm nhạc do vi phạm sự hợp tác và trách nhiệm của người được ủy thác. Sau vụ kiện, cả hai bên đều cả hai bên đều buộc tội lẫn nhau trước giới truyền thông.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Sau năm tháng trình diễn với nhóm Destiny's Child, Franklin cũng đã rời khỏi nhóm nhạc, theo nhóm nhạc, cô đã bị sa thải vì cô hay lỡ những sự kiện hay các buổi diễn. Theo thành viên Williams, Franklin không thể chịu nổi những áp lực xung quanh mình.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Franklin sau đó đã chia sẻ rằng cô rời nhóm nhạc bởi sự tiêu cực xung quanh vụ tranh chấp và việc cô không thể có được bất kỳ quyền lợi nào trong việc đưa ra quyết định.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Nhưng vụ việc này gây ít gây tiếng vang hơn. Mặt khác, William chia sẻ rằng việc thêm cô vào trong nhóm dẫn tới việc cô phải "tranh đấu với sự không an toàn": "Tôi đã so sánh mình với những thành viên khác và áp lực đang đè nặng lên tôi."<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref>
 
Đến cuối năm 2000, Roberson và Luckett đã ngừng kiện Knowles và Rowland trong một cuộc trao đổi riêng, nhưng họ vẫn tiếp tục chống lại người quản lý của mình. Trong cuộc trao đổi riêng giữa hai bên, họ đều chấp thuận việc không tấn công nhau trên sóng truyền thông.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Roberson và Luckett sau đó đã tham gia vào nhóm nhạc Anjel nhưng không gây tiếng vang và số lượng đĩa không bán chạy. Trong khi đó, Destiny's Child vẫn tiếp tục thành công. Những năm sau có lẽ là những năm thành công nhất của nhóm,<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> và đã giúp họ trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng.<ref name="People">{{citechú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> "Say My Name" đã trở thành đĩa đơn quán quân có số lượng đĩa bán ra thành công nhất của nhóm từ trước đến nay.<ref name="Anthony">{{cite news |last=Anthony |first=James |title='Of course you can lose yourself' |url=http://arts.guardian.co.uk/filmandmusic/story/0,,1852025,00.html |work=The Guardian |date=2006-08-18 |accessdate=2008-05-13 | location=London}}</ref> Đĩa đơn cuối cùng của album ''The Writing's on the Wall'' là "[[Jumpin' Jumpin']]", đồng thời cũng là đĩa đơn nằm trong top 10. Trong thời gian này, Destiny's Child bắt đầu trình diễn mở màn cho các ca sĩ nổi tiếng như [[Britney Spears]] và [[Christina Aguilera]].<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Sau đó, Destiny's Child đã thu âm ca khúc nhạc phim cho bộ phim ''[[Charlie's Angels (phim)|Charlie's Angels]]''. Ca khúc sau đó được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 10 năm 2000 với tên, "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part 1]]", tiếp tục đạt vị trí số 1 trong 11 tuần liền trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 từ tháng 11 năm 2000 đến tháng 1 năm 2001,<ref name="People">{{citechú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> trở thành đĩa đơn đứng nhất lâu nhất của Destiny's Child và trong năm đó tại Mỹ.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1000808321#/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1000808321|title=Chart Beat Bonus: Endless 'Love'|date = ngày 18 tháng 2 năm 2005 |work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate = ngày 15 tháng 7 năm 2010}}</ref> Chính vì sự thành công của đĩa đơn này mà album nhạc phim của ''Charlie's Angels'' đã tiêu thụ 1.5 triệu bản vào năm 2001.<ref name="GillingsSoul">{{citechú newsthích báo|url=http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors|title=Destiny's Child: Soul-Survivors|last=Gillings|first=Andrew|date =2001-04- ngày 22 tháng 4 năm 2001 |work=Essence|accessdate =2009-02- ngày 25 tháng 2 năm 2009 | archivedate= Octoberngày 15, tháng 10 năm 2008 | archiveurl = https://web.archive.org/web/20081015053632/http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors}}</ref> Năm 2000, Destiny's Child đã nhận giải Sammy Davis Jr. của Soul Train với hạng mục Ngôi sao giải trí của Năm.<ref name="GillingsSoul">{{citechú newsthích báo|url=http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors|title=Destiny's Child: Soul-Survivors|last=Gillings|first=Andrew|date =2001-04- ngày 22 tháng 4 năm 2001 |work=Essence|accessdate =2009-02- ngày 25 tháng 2 năm 2009 | archivedate= Octoberngày 15, tháng 10 năm 2008 | archiveurl = https://web.archive.org/web/20081015053632/http://www.essence.com/news_entertainment/entertainment/articles/destinyschildsoulsurvivors}}</ref>
 
=== 2001–2003: ''Survivor'', những phát hành khác và tạm thời tan rã ===
Tại lễ trao giải [[Billboard Music Awards|''Billboard'' Music Awards]] năm 2001, Destiny's Child đã giành được một số giải thưởng, trong đó có Nghệ sĩ của năm và Cặp/Nhóm của năm,<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1374996/20001206/sisqo.jhtml|title=Sisqo Wins Big At Billboard Awards|last=VanHorn|first=Teri|date = ngày 6 tháng 12 năm 2000 |publisher=MTV|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> họ tiếp tục giành giải Nghệ sĩ của năm trong năm giải thưởng khác vào năm sau đó.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1451323/20011205/destinys_child.jhtml|title=Destiny's Child, R. Kelly Win Big, Britney Gets Soaked At Billboard Awards|last=Vineyard|first=Jennifer|date = ngày 5 tháng 12 năm 2001 |publisher=MTV|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Vào tháng 9 năm 2000, nhóm đồng thời cũng mang về hai giải Soul Train Lady of Soul Awards, trong đó có Album R&B/Soul của Năm và Nhóm nhạc của năm cho album ''The Writing's on the Wall''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.rollingstone.com/artists/tonibraxton/articles/story/5923742/mary_j_blige_angie_stone_destinys_child_win_big_at_soul_awards|title=Mary J. Blige, Angie Stone, Destiny's Child Win Big at Soul Awards |last=Schafer|first=Gabrielle|date = ngày 5 tháng 9 năm 2000 |work=Rolling Stone|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009 |archiveurl = http://web.archive.org/web/20060818015916/http://www.rollingstone.com/artists/tonibraxton/articles/story/5923742/mary_j_blige_angie_stone_destinys_child_win_big_at_soul_awards |archivedate = ngày 18 tháng 8 năm 2006|deadurl=yes}}</ref> Destiny's Child lại tiếp tục trở lại phòng thu và thu âm album thứ ba của họ, ''[[Survivor (album của Destiny's Child)|Survivor]]'', vào khoảng cuối năm 2000 đến đầu năm 2001. Trong quá trình thực hiện, Knowles đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất và đồng sáng tác gần như toàn bộ album.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="VanHornCDs">{{chú thích báo |last=VanHorn |first=Teri |title=Destiny's Child Solo CDs Won't Compete With Group, Each Other |url=http://www.mtv.com/news/articles/1375022/20001208/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 8 tháng 12 năm 2008 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.com/bands/archive/d/destiny01/index2.jhtml|title=Destiny's Child: Survivors|publisher=MTV|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> ''Survivor'' trở thành album thành công tại các cửa hàng vào mùa xuân năm 2001, giúp album dẫn đầu bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với hơn 663,000 bản đã được tiêu thụ trong tuần đầu tiên.<ref name="BillAlbumChart">{{citechú thích web|url={{BillboardURLbyName|artist=destiny's child|chart=all}}|title=Artist Chart History – Destiny's Child|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref><ref>{{chú thích báo |last=Cohen |first=Jonathan |title=Destiny's Child Shoot Straight To No. 1 |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=862896 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 9 tháng 5 năm 2001 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Ba đĩa đơn đầu trích từ album là "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part I]]", "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]" và "[[Bootylicious]]" đều vươn lên top 3 tại Mỹ và rất thành công tại các quốc gia khác;<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> hai đĩa đơn đầu đều là hai đĩa đơn quán quân nhiều tuần liền tại Anh.<ref>{{chú thích báo |last=Sexton |first=Paul |title=Destiny's Child 'Survive' On UK Singles Chart |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=848568 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 23 tháng 4 năm 2001 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Album còn được chứng nhận bốn-lần đĩa Bạch kim tại Hoa Kỳ<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> và hai lẫn đĩa Bạch kim tại Úc.<ref>{{chú thích web |title=ARIA Charts - Accreditations - 2001 Albums |url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-accreditations-albums-2001.htm |work=Australian Recording Industry Association |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Đến nay, Survivor đã bán hơn 12 triệu bản toàn thế giới.<ref name="musicstarx.net"/>
[[Hình:Beyonce Independent.jpg|nhỏ|trái|Beyoncé đang trình diễn ca khúc thành công của Destiny's Child, "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part I]]", đĩa đơn quán quân nhiều tuần nhất của nhóm]]
Vào tháng 10 năm 2001, ''Destiny's Child'' phát hành một album [[lễ Giáng Sinh|chủ đề Giáng sinh]] mang tên ''[[8 Days of Christmas]]'', gồm các phiên bản hiện đại của những ca khúc Giáng sinh truyền thống.<ref>{{chú thích báo |last=VanHorn |first=Teri |title=Destiny's Child Put 'Stank' Into Christmas On Holiday Album |url=http://www.mtv.com/news/articles/1449126/20010924/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 24 tháng 9 năm 2008 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Album vươn lên vị trí 34 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200.<ref name="BillAlbumChart">{{citechú thích web|url={{BillboardURLbyName|artist=destiny's child|chart=all}}|title=Artist Chart History – Destiny's Child|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> Vào tháng 2 năm 2001, Destiny's Child thắng hai giải [[Giải Grammy|Grammy]] cho "Say My Name" gồm Phần trình diễn R&B của một Cặp hay Nhóm Xuất sắc nhất và Ca khúc R&B Hay nhất.<ref>{{chú thích báo |last=Reese |first=Lori |title=Steel Yourself |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,100210,00.html |work=Entertainment Weekly |date = ngày 22 tháng 2 năm 2001 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Họ sau đó cũng nhận được một giải American Music Award cho Nhóm nhạc/Cặp đôi R&B/Soul được yêu thích nhất.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Năm 2001, nhóm còn hát bè cho [[Solange Knowles]], trong ca khúc nhạc phim của sê-ri phim hoạt hình của [[Disney Channel|Kênh Disney]], [[The Proud Family]]. Vào tháng 3 năm 2002, một album tuyển tập được [[remix|phối lại]] mang tên ''[[This Is the Remix (album của Destiny's Child)|This Is the Remix]]'' đã được phát hành để trong thời gian này, nhóm có thể hoàn thiện album kế tiếp của mình.<ref>{{chú thích báo |last=Cohen |first=Jonathan |title=Destiny's Child Groove On 'Remix' |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1315128 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 5 tháng 2 năm 2002 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Album này giành vị trí thứ 29 tại Mỹ,<ref name="BillAlbumChart">{{citechú thích web|url={{BillboardURLbyName|artist=destiny's child|chart=all}}|title=Artist Chart History – Destiny's Child|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> tiêu thụ được hơn 1 triệu bản toàn thế giới và đã được liệt kê trong [[Danh sách các album phối lại bán chạy nhất toàn thế giới|Danh sách các album phối lại có số đĩa bán cao nhất mọi thời đại]]. Đĩa đơn dẫn đầu của album, "Survivor" đã được cho là một lời đáp lại sau những xung đột giữa các thành viên trong ban nhạc, nhưng Knowles đã tuyên bố rằng bài hát không nhắm đến bất cứ ai cả. Ngay sau khi phát hành album ''This Is the Remix'', hai thành viên cũ của nhóm là Roberson và Luckett thêm một lần nữa kiện Destiny's Child và hãng [[Sony Music]], vì cho rằng đĩa đơn này đã phá vỡ thỏa thuận về việc ngừng buộc tội lẫn nhau trước công chúng. Vào tháng 6 năm 2002, vụ án đã được giải quyết xong bởi tòa.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Vào cuối năm 2000, thông báo về việc bắt đầu những dự án cá nhân đơn lẻ, bao gồm cả việc phát hành những album solo của mỗi thành viên,<ref name="VanHornCDs">{{Citechú newsthích báo |last=VanHorn |first=Teri |title=Destiny's Child Solo CDs Won't Compete With Group, Each Other |url=http://www.mtv.com/news/articles/1375022/20001208/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2008- ngày 8 tháng 12-08 năm 2008 |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> đây chính là một ý tưởng của người quản lý của họ.<ref name="CNN">{{chú thích báo |title=Kelly Rowland pursues her own destiny |url=http://edition.cnn.com/2003/SHOWBIZ/Music/01/23/mroom.rowland/index.html |work=Cable News Network |date = ngày 23 tháng 1 năm 2003 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Vào năm 2002, Williams phát hành album solo của cô mang tên ''[[Heart to Yours]]'', một tuyển tập nhạc [[Gospel]] đương đại.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Album đứng giành vị trí thứ 1 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Top Gospel Albums. Cùng ngày phát hành ''Heart to Yours'', Destiny's Child cũng đã phát hành tự truyện mang tên ''Soul Survivors''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1452910/20020315/story.jhtml|title=Destiny's Child Solo Gospel Album Features 9/11 Tribute|last=Corey|first=Moss|date = ngày 15 tháng 3 năm 2002 |publisher=MTV|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Rowland sau đó cũng đã kết hợp với nghệ sĩ [[hip hop]] [[Nelly]] trong ca khúc "[[Dilemma (bài hát)|Dilemma]]", trở thành một ca khúc thành công toàn cầu và giúp cô nhận được giải Grammy cho Kết hợp Rap/Hát hay nhất;<ref name="CNN">{{citechú newsthích báo |title=Kelly Rowland pursues her own destiny |url=http://edition.cnn.com/2003/SHOWBIZ/Music/01/23/mroom.rowland/index.html |work=Cable News Network |date =2003-01- ngày 23 tháng 1 năm 2003 |accessdate =2008-05- ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> trở thành người đầu tiên trong nhóm có đĩa đơn dẫn đầu bảng xếp hạng tại Mỹ. Cùng năm đó, Knowles đã có vai diễn đầu tiên trong phim ''[[Austin Powers in Goldmember]]''. Cô còn thu âm ca khúc "[[Work It Out (bài hát của Beyoncé Knowles)|Work It Out]]", được sử dụng làm nhạc phim và trở thành đĩa đơn đầu tay của cô.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
[[Tập tin:Solange Knowles at the Ruby Lounge.jpg|nhỏ|upright|Em gái của Knowles, [[Solange Knowles|Solange]], người từng thu âm và trình diễn cùng Destiny's Child, từng có tin đồn rằng sẽ tham gia nhóm, nhưng cô đã xác minh rằng đây chỉ là một bài kiểm tra về phản ứng của công chúng.]]
Sau thành công của "Dilemma", Rowland phát hành album đầu tay mang tên ''[[Simply Deep]]'' được dự kiến sẽ phát hành vào đầu năm 2003 nhưng đã dời lại sớm hơn vào tháng 9 năm 2002.<ref name="Corey6">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Nelly Hit Forces Change In Plans For Destiny's Child LPs |url=http://www.mtv.com/news/articles/1456206/20020722/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 22 tháng 7 năm 2002 |accessdate = ngày 8 tháng 5 năm 2008}}</ref> Rowland sau đó đã trở thành tên tuổi nổi tiếng toàn cầu khi ''[[Simply Deep]]'' leo lên đứng đầu bảng xếp hạng [[UK Albums Chart]].<ref>{{chú thích báo |title=Tatu top singles chart again |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/2742967.stm |work=British Broadcasting Corporation |date = ngày 9 tháng 2 năm 2003 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Cùng năm đó, cô cũng tham gia xuất hiện trong bộ phim kinh dị ''[[Freddy vs. Jason]]''. Trong khi đó, Knowles đang thực hiện bộ phim thứ hai của mình là "[[The Fighting Temptations]]", và xuất hiện trong đĩa đơn "[['03 Bonnie and Clyde]]" của nghệ sĩ rap hay còn được biết đến là bạn trai sau này của cô, [[Jay-Z]], giúp mở đường cho việc phát hành album đơn đầu tay của Knowles.<ref name="Louie">{{chú thích web |last=Louie |first=Rebecca |title=Crazy in love with Beyonce |url=http://www.nydailynews.com/entertainment/music/2007/08/05/2007-08-05_crazy_in_love_with_beyonce.html |work=New York Daily News |date = ngày 6 tháng 8 năm 2007 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref>
 
Do sự thành công của "Dilemma", album đầu tay của Knowles, ''[[Dangerously in Love]]'', đã phải trì hoãn nhiều lẫn cho tới tháng 6 năm 2003.<ref name="Corey6"/><ref>{{chú thích báo |last=Susman |first=Gary |title='Anger' Management |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,456067,00.html |work=Entertainment Weekly |date = ngày 2 tháng 6 năm 2003 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Đây chính là thành công nổi trội nhất trong nhóm.<ref name="BBCSplit">{{chú thích báo|url=<!--http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/4087228.stm-->http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/4087228.stm|title=R&B stars Destiny's Child split|date = ngày 13 tháng 6 năm 2005 |publisher=BBC|accessdate = ngày 4 tháng 10 năm 2008}}</ref> ''Dangerously in Love'' sau đó xuất hiện tại vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200, với 317,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên.<ref name="Martens">{{chú thích báo |last=Todd |first=Martens |title=Beyonce, Branch Albums Storm The Chart |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1926761 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 2 tháng 7 năm 2003 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Album gồm các đĩa đơn thành công như "[[Crazy in Love (bài hát của Beyoncé Knowles)|Crazy in Love]]", và "[[Baby Boy (bài hát của Beyoncé Knowles)|Baby Boy]]"; hai đĩa đơn nằm trong top 5, "[[Me, Myself and I (bài hát của Beyoncé Knowles)|Me, Myself and I]]" và "[[Naughty Girl (bài hát của Beyoncé Knowles)|Naughty Girl]]". Album được chứng nhận bốn-lần Bạch kim do tổ chức [[Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ|RIAA]].<ref name=autogenerated1>[http://www.riaa.com/goldandplatinumdata.php?table=SEARCH_RESULTS] Gold & Platinum</ref> Đây cũng chính là album có số đĩa bán thành công nhất của Knowles tính đến nay, với hơn 4.7 triệu bản tại Hoa Kỳ, vào tháng 7 năm 2009.<ref>{{chú thích web|url=http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/39906/chart-watch-extra-the-top-20-new-acts-of-the-2000s/|title=Chart Watch Extra: The Top 20 New Acts Of The 2000s|author=Paul Grein|work=Yahoo! Music |publisher=[[Yahoo!]] |date = ngày 22 tháng 7 năm 2009 |accessdate = ngày 10 tháng 10 năm 2010}}</ref> Trên toàn thế giới, album đã bán được hơn 11 triệu bản.<ref name="musicstarx.net"/><ref>{{chú thích web|url=http://www.prnewswire.co.uk/cgi/news/release?id=171923 |title=Beyonce & Fans to Celebrate Superstar's 25th Birthday With Eagerly Awaited New Solo Album, 'B'Day,' Coming in September |publisher=Prnewswire.co.uk |date= |accessdate = ngày 24 tháng 10 năm 2010}}</ref> Album solo này còn nhận được nhiều đánh giá cao từ các nhà phê bình và nhận được năm giải [[Giải Grammy|Grammy]] trong một đêm, bằng với [[Norah Jones]], [[Lauryn Hill]], và [[Alicia Keys]] về số giải Grammy nhận được nhiều nhất bởi một nghệ sĩ nữ trong một đêm.<ref>{{chú thích báo |last=Silverman |first=Stephen |title=Much Grammy 'Love' for Beyoncé, OutKast |url=http://www.people.com/people/article/0,,627723,00.html |work=People |date = ngày 8 tháng 2 năm 2004 |accessdate = ngày 22 tháng 5 năm 2008}}</ref> Vào tháng 11 năm 2003, Williams còn xuất hiện trong vở kịch ''[[Aida (nhạc kịch)|Aida]]'' tại [[sân khấu Broadway|Broadway]]. Vào tháng 1 năm 2004, cô đồng thời cũng phát hành album gospel tiếp theo mang tên ''[[Do You Know (album của Michelle Williams)|Do You Know]]''.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
[[Dwayne Wiggins]], người sản xuất những bản thu đầu tiên cho nhóm Destiny's Child, đã nộp đơn kiện cùng luật sư cũ của anh (Bloom, Hergott, Diemer & Cook LLP), đòi bồi thường 15 triệu đô-la khi giảm bớt thỏa thuận hợp đồng mà không có sự đồng ý của anh. Trong bản hợp đồng gốc của anh có nói rõ sẽ cùng công ty Sony Music/Columbia và nhóm Destiny's Child làm việc với anh trong các dự án âm nhạc và họ sẽ mua bản quyền các ca khúc từ anh đến bảy năm liền, nhưng tiền bản quyền chỉ được chi trả vào ba album đầu tiên. Vụ việc đã được giải quyết với một số tiền không được tiết lộ.<ref name="wiggins">[http://new.music.yahoo.com/tony-toni-tone/news/tony-toni-tone-member-sues-attorney-for-letting-destinys-child-off-easy--12060354 "Tony Toni Tone Member Sues Attorney For Letting Destiny's Child Off Easy"], Yahoo Music News. Truy cập 2009-12-26</ref>
Dòng 80:
{{Listen|filename=Destiny's Child - Lose My Breath (Album Version).ogg|title="Destiny's Child - "Lose My Breath"|description=Trích đoạn ca khúc "Lose My Breath", đĩa đơn quán quân cuối cùng của nhóm, trích từ album ''Destiny Fulfilled''.}}
 
Ba năm sau khi nhóm tạm ngưng hoạt động cùng nhau, các thành viên của Destiny's Child đã trở lại để thu âm album phòng thu thứ tư và cuối cùng mang tên ''[[Destiny Fulfilled]]''.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Album này đưa nhóm tới một thể loại nhạc mang tính đường phố, mạnh mẽ hơn với những ca khúc có liên quan với nhau về ý tưởng.<ref name="MossReunited">{{Citechú newsthích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child: Reunited And It Feels So Good (Part 1) |url=http://www.mtv.com/bands/d/destinys_child/news_feature/041108/ |work=MTV News |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> ''Destiny Fulfilled'' khá cân bằng đối với các thành viên:<ref name="Anthony">{{cite news |last=Anthony |first=James |title='Of course you can lose yourself' |url=http://arts.guardian.co.uk/filmandmusic/story/0,,1852025,00.html |work=The Guardian |date=2006-08-18 |accessdate=2008-05-13 | location=London}}</ref> mỗi thành viên đều tham gia viết phần lớn ca khúc,<ref>{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child: Reunited And It Feels So Good (Part 2) |url=http://www.mtv.com/bands/d/destinys_child/news_feature/041108/index2.jhtml |work=MTV News |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> cũng như trở thành giám đốc sản xuất bên cạnh quản lý của họ.<ref>{{Cite album-notes |title=Destinys Fulfilled |publisher=Sony Music BMG Entertainment |year=2004}}</ref>
 
''Destiny Fulfilled'' phát hành vào 15 tháng 11 năm 2004 nhưng đã không thể vượt qua được ''Survivor'' khi chỉ đạt vị trí thứ 2 tại tuần đầu tiên.<ref>{{chú thích báo |last=Whitmire |first=Margo |title=Eminem Thankful To Remain No. 1 |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1000726418 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 24 tháng 11 năm 2004 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Nhưng album vẫn được chứng nhận ba lần Bạch kim tại Hoa Kỳ,<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref> và vẫn là album có số lượng đĩa bán thành công nhất năm 2005 với hơn 8 triệu bản được tiêu thụ;<ref name="musicstarx.net"/> giúp nhóm tiếp tục trở thành nhóm nhạc nữ có số lượng đĩa bán cao nhất và là nhóm nhạc Mỹ của năm. Bốn đĩa đơn trích từ album gồm "[[Lose My Breath]]", "[[Soldier (bài hát của Destiny's Child)|Soldier]]", "[[Cater 2 U]]" và "[[Girl (bài hát của Destiny's Child)|Girl]]". Hai đĩa đơn đầu tiên đều vươn lên vị trí thứ ba tại Mỹ, còn "Soldier" và "Cater 2 U" đều được RIAA chứng nhận Bạch kim vào năm 2006.<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
Để quảng bá cho album, Destiny's Child đã thực hiện tour diễn thế giới của họ mang tên [[Destiny Fulfilled... and Lovin' It Tour]]. Vào ngày 11 tháng 6, 2004, tại buổi diễn ở Palau Sant Jordi tại [[Barcelona]], Tây Ban Nha, nhóm đã công bố trước 16,000 khán giả họ sẽ chính thức tan rã.<ref name="GilSplit">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child Announce Split |url=http://www.mtv.com/news/articles/1503975/20050612/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 12 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Tuy nhiên, Destiny's Child vẫn tuyên bố rằng tên gọi ''Destiny Fulfilled'' (Tạm dịch: ''Số phận Hoàn tất'') không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên.<ref name="VineyardSplit">{{chú thích báo |last=Vineyard |first=Jennifer |title=Destiny's Child Talk Split: 'It's Not The End' |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504619/20050623/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 23 tháng 6 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Ngay trong khi thực hiện album, họ đã có ý định chia tay sau 14 năm hoạt động của nhóm để theo đuổi con đường đi riêng như nguyện vọng của mỗi thành viên. Knowles đã phát biểu rằng sứ mệnh của họ đã hoàn tất.<ref name="VineyardSplit">{{Citechú newsthích báo |last=Vineyard |first=Jennifer |title=Destiny's Child Talk Split: 'It's Not The End' |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504619/20050623/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 23 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Nhóm đã gửi một lá thư đến kênh [[MTV]] và nói về sự tan rã:
 
<blockquote>
Chúng tôi đã làm việc cùng nhau từ lúc 9 tuổi, và cùng nhau đi lưu diễn lúc 14 tuổi. Sau rất nhiều cuộc thảo luận và thấu hiểu lẫn nhau, chúng tôi đã nhận ra rằng tour diễn gần đây đã cho nhóm cơ hội để rời xa Destiny's Child trên đỉnh cao của sự nghiệp, với tình bạn kèm theo sự biết ơn lớn lao đến âm nhạc của chúng tôi, những người hâm mộ và những thành viên của nhóm. Sau những năm tuyệt vời làm việc cùng nhau, chúng tôi đã nhận ra rằng đây chính là thời điểm mà chúng tôi cần phải theo đuổi mục tiêu cá nhân và nỗ lực solo... Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ luôn yêu quý nhau như những người bạn, như chị em và luôn ủng hộ nhau như những người nghệ sĩ. Chúng tôi muốn cảm ơn những người hâm mộ của vì tình yêu và sự ủng hộ vĩ đại của họ, nhóm mong sẽ gặp tất cả các bạn khi chúng tôi đang hoàn tất số phận của mình.<br />—Destiny's Child, MTV<ref name="GilSplit">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child Announce Split |url=http://www.mtv.com/news/articles/1503975/20050612/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 12 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref>
</blockquote>
 
[[Hình:Destiny's Child Tour.jpg|nhỏ|trái|Destiny's Child trình diễn ca khúc "[[Say My Name]]" trong tour diễn cuối cùng của họ, [[Destiny Fulfilled... And Lovin' It]]]]
 
Destiny's Child đã phát hành album tuyển tập mang tên ''[[Number 1's (album của Destiny's Child)|#1's]]'', vào ngày 25 tháng 10, 2005. Album này gồm những đĩa đơn đã giành vị trí thứ nhất của họ như "Independent Woman Part 1", "Say My Name" và "Bootylicious". Ba ca khúc mới được thu âm cũng đã kèm theo trong album này, gồm "[[Stand Up For Love]]", bài hát chính thức cho Ngày Quốc tế Trẻ em, "[[Check on It]]", một bài hát Knowles thu âm cho bộ phim ''[[The Pink Panther (phim năm 2006)|The Pink Panther]]''' và "Feel the Same Way I Do", bài hát cuối cùng nằm trong album ''#1's''.<ref name="Moss#1's">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child Look Back With #1's Before Going Their Separate Ways |url=http://www.mtv.com/news/articles/1510101/09212005/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 21 tháng 9 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> ''#1's'' đồng thời cũng được phát hành ở dạng [[DualDisc]], nhưng vẫn chung danh sách các ca khúc, kèm theo 7 video được chọn lọc và một đoạn phim quảng bá cho DVD của nhóm là ''[[Destiny's Child: Live in Atlanta]]''.<ref name="Moss#1's"/> DVD này được quay tại [[Atlanta]] khi nhóm thực hiện tour lưu diễn [[Destiny Fulfilled... And Lovin' It]]. DVD được phát hành ngày 28 tháng 3, 2006 và được chứng nhận Bạch kim bởi RIAA, với hơn 1 triệu bản đã tiêu thụ.<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
Tựa album này nói đúng ra phải gồm những đĩa đơn quán quân của nhóm. Trong khi những lời tựa của tuyển tập không đưa ra bất cứ thông tin nào liên quan đến sự trình diễn thương mại của các ca khúc trong album. Keith Caulfield của ''[[Billboard]]'' cho rằng cho rằng tựa của album này có lẽ chỉ là một "cách thức tiếp thị".<ref>{{chú thích web |last=Caulfield |first=Keith |title=Ask Billboard |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1001393289 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 1 tháng 11 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008 |archiveurl=https://archive.is/HxY0|archivedate = ngày 22 tháng 7 năm 2012}}</ref> Ngược lại, nhà báo Chris Harris của [[MTV]] lại cho rằng album đã "xứng đáng với cái tên của nó";<ref name="Harris#1's">{{chú thích báo |last=Harris |first=Chris |title=Destiny's Child's #1's Hits — You Guessed It — #1 |url=http://www.mtv.com/news/articles/1512779/20051102/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 2 tháng 11 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> ''#1's'' lần đầu xuất hiện tại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với 113,000 bản đã được tiêu thụ trong tuần đầu tiên và đã được RIAA chứng nhận Bạch kim.<ref name="RIAA">{{citechú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009}}</ref><ref>{{chú thích báo |last=Whitmire |first=Margo |title=Destiny's '#1's' Bows At The Top |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1001432508 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 2 tháng 11 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> "Stand Up For Love" sau đó đã chính thức trở thành đĩa đơn cuối cùng của nhóm Destiny's Child.
 
===2006-12: Tan rã và những dự án gần đây===
[[Tập tin:Star of Destiny's Child.jpg|200px|nhỏ|Ngôi sao của Destiny's Child trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood|Đại lộ Hollywood]].]]
Destiny's Child đã tái hợp với màn trình diễn chia tay tại [[NBA All-Star Game 2006]] vào ngày 19 tháng 2 ở [[Houston, Texas]]. Nhưng Knowles lại phát biểu rằng: "Đây chỉ là album cuối cùng, không phải là buổi diễn cuối cùng."<ref name="TraceyNBA">{{chú thích báo|url=http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba|title=Destiny's Child Reunite for NBA |last=Ford|first=Tracey|date = ngày 31 tháng 1 năm 2006 |work=Rolling Stone|accessdate = ngày 4 tháng 8 năm 2008 |archiveurl = http://web.archive.org/web/20080318185310/http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba |archivedate = ngày 18 tháng 3 năm 2008|deadurl=yes}}</ref><ref>{{chú thích báo |author=MTV News staff |title=For The Record: Quick News On Kanye West, Destiny's Child, Metallica, Kelly Clarkson, Paris Hilton & More |url=http://www.mtv.com/news/articles/1523969/20060208/west_kanye.jhtml? |work=MTV News |date = ngày 8 tháng 2 năm 2006 |date = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Trong cùng tháng, họ cũng đã trình diễn lần cuối trên truyền hình tại đêm hòa nhạc từ thiện Fashion Rock ở New York.<ref name="TraceyNBA">{{citechú newsthích báo|url=http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba|title=Destiny's Child Reunite for NBA |last=Ford|first=Tracey|date =2006-01- ngày 31 tháng 1 năm 2006 |work=Rolling Stone|accessdate = ngày 4 tháng 8 năm 2008-08-04 |archiveurl = http://web.archive.org/web/20080318185310/http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba |archivedate = Marchngày 18, tháng 3 năm 2008|deadurl=yes}}</ref> Vào ngày 28 tháng 3, 2006, Destiny’s Child đã nhận ngôi sao thứ 2,035 trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood]].<ref>{{chú thích báo |author=Associated Press |title=Destiny's Child Gets Star on Walk of Fame |url=http://www.foxnews.com/story/0,2933,189491,00.html?sPage=fnc/entertainment/beyonce |work=FOX News |date = ngày 29 tháng 3 năm 2006 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Tại lễ trao giải [[BET Awards]] 2006, Destiny's Child đã nhận giải Nhóm nhạc Xuất sắc nhất, hạng mục này cũng được nhóm nhận giải vào năm 2005 và 2001.<ref>{{chú thích web|url=http://www.ew.com/ew/gallery/0,,20208394_8,00.html|title=BET Awards Style: 28 Past Winner Portraits|work=Entertainment Weekly|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
Sau khi tan rã, các thành viên trong nhóm tiếp tục sự nghiệp solo của mình, trong đó có [[LeToya Luckett]], người phát hành album đầu tay của mình mang tên ''[[LeToya (album)|LeToya]]'', vào tháng 7 năm 2006, dẫn đầu bảng xếp hạng ''Billboard'' 200.<ref>{{chú thích báo | url=http://www.billboard.com/#/news/letoya-powers-right-to-no-1-on-billboard-1002949246.story | title=LeToya Powers Right To No. 1 On Billboard 200 | accessdate = ngày 24 tháng 2 năm 2009 | last=Cohen | first=Jonathan | date = ngày 2 tháng 8 năm 2006 | work=Billboard | publisher=Nielsen Business Media, Inc}}</ref> Knowles sau đó đã tham gia vào bộ phim hài năm 2006, ''[[The Pink Panther (phim năm 2006)|The Pink Panther]]'', và tham gia vào việc thu âm nhạc phim với đĩa đơn quán quân "[[Check on It]]".<ref name="IGN">{{chú thích web |last=Otto |first=Jeff |title=Interview: Beyonce Knowles |url=http://movies.ign.com/articles/686/686598p1.html|work=IGN|date = ngày 8 tháng 2 năm 2006 |accessdate = ngày 21 tháng 7 năm 2011}}</ref> Cô sau đó tiếp tục nhận vai nữ chính trong bộ phim ''[[Giấc mơ danh vọng|Dreamgirls]]'', thực hiện từ vở nhạc kịch [[Sân khấu Broadway|Broadway]] [[Dreamgirls (nhạc kịch)|cùng tên]] kể về một nhóm nhạc thập niên 1960 hay đúng hơn là dựa trên câu chuyện của nhóm nhạc [[The Supremes]]. Trong bộ phim, cô đóng vai Deena Jones, nhân vật dựa trên hình mẫu của [[Diana Ross]].<ref name="IGN">{{citechú thích web |last=Otto |first=Jeff |title=Interview: Beyonce Knowles |url=http://movies.ign.com/articles/686/686598p1.html|work=IGN|date = ngày 8 tháng 2 năm 2006-02-08 |accessdate =2009-02- ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref><ref>{{chú thích báo |last=Tecson |first=Brandee J. |title=Beyonce Slimming Down And 'Completely Becoming Deena' |url=http://www.mtv.com/movies/news/articles/1523138/20060203/story.jhtml |work=MTV News |date = ngày 3 tháng 2 năm 2006 |accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Lấy cảm hứng từ nhân vật của mình trong bộ phim, cô đã bắt tay vào thực hiện album phòng thu thứ hai của mình mang tên ''[[B'Day]]'', phát hành vào 4 tháng 9, 2006 tại Mỹ, đúng vào ngày sinh nhật của cô.<ref>{{chú thích báo |last=Reid |first=Shaheem |title=Be All You Can, B. |url=http://www.mtv.com/bands/b/beyonce/news_feature_081406/index2.jhtml |work=MTV News |accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Video ca nhạc "[[Get Me Bodied]]" của cô còn gồm Rowland, Williams, và người em gái [[Solange Knowles|Solange]]. Video sau đó đã được phát hành trong DVD ''[[B'Day Anthology]]'' vào tháng 4 năm 2007. Knowles chia sẻ: "Rất thú vị khi có họ trong video, bạn sẽ cảm thấy như mình là một phần của cuộc trải nghiệm này".<ref>{{chú thích báo |last=Vineyard |first=Jennifer |title=Beyonce: Behind The B'Day Videos (Part 2) |url=http://www.mtv.com/bands/b/beyonce/videos_07/news_feature_040207/index2.jhtml |work=MTV News |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref>
 
Vào năm 2007, Rowland đã phát hành album solo thứ hai của cô mang tên ''[[Ms. Kelly]]''. Tiếp đó, ngày 26 tháng 6, 2007, nhóm đã tiếp tục cùng nhau trình diễn tải giải [[BET Awards]] năm 2007. Knowles đã trình diễn "Get Me Bodied" cùng các vị khách đặc biệt là Williams, Solange Knowles, và [[Mo'Nique]]. Sau buổi diễn, Knowles đã giới thiệu màn trình diễn tiếp theo là ca khúc "[[Like This (bài hát của Kelly Rowland)|Like This]]" của Rowland và [[Eve (rapper)|Eve]].<ref>{{chú thích báo |title=Hudson, Beyonce, T.I. Among BET Winners |url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2007/06/26/AR2007062601233.html?tid=informbox |work=The Washington Post |date = ngày 2 tháng 3 năm 2007 |accessdate = ngày 26 tháng 1 năm 2008 | first=Sandy | last=Cohen}}</ref> Vào ngày 2 tháng 9, 2007, Knowles và nhóm Destiny’s Child đã trình diễn một đoạn trong ca khúc "Survivor" khi thực hiện tour lưu diễn [[The Beyoncé Experience]] tại [[Los Angeles]], hai thành viên còn lại của nhóm đã cùng nhau hát ca khúc "Chúc mừng Sinh nhật" đến cô. Màn trình diễn này sau đó cũng đã xuất hiện trong đĩa DVD mang tên ''[[The Beyoncé Experience Live|The Beyoncé Experience Live!]]'', phát hành vào ngày 20 tháng 11, 2007.<ref>{{chú thích báo |last=Crosley |first=Hillary |title=Billboard Bits: Beyonce, Bob Marley, Bragg/Brad |url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003646949 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date = ngày 27 tháng 9 năm 2007 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Sau đó, vào mùa xuân năm 2008, Rowland đã phát hành lại album của mình với tiêu đề ''[[Ms. Kelly|Ms. Kelly Deluxe]]''. Album có ca khúc ''[[Daylight]]'' cùng nghệ sĩ rap của nhóm [[Gym Class Heroes]], [[Travis McCoy]], đã lọt vào top 20 của UK Singles Chart.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/281/kelly_rolland_fulfilling_her_destiny/ Kelly Rowland interview by Pete Lewis, 'Blues & Soul' May 2008]</ref> Knowles sau đó đã thu âm lại ca khúc của Billy Joel, "Honesty", được công ty của [[Mathew Knowles]]/[[Music World]] phát hành dưới dạng CD tại Nhật Bản vào tháng 6 năm 2008 để kỷ niệm 10 năm thành lập nhóm. Williams sau đó đã phát hành album không thuộc thể loại Gospel đầu tiên của cô là ''[[Unexpected (album của Michelle Williams)|Unexpected]]'',<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003728950|title=Williams In A Dance Mood On Third Solo Disc|last=Crosley|first=Hillary|date = ngày 21 tháng 3 năm 2008 |work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> vào tháng 10 năm 2008 cùng một số ca khúc mang hương vị [[Euro-dance]] sôi động.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/334/michelle_williams_fulfills_her_destiny/ Michelle Williams: Destiny's OffSpring]. ''Blues & Soul''. September 2008.</ref> Một tháng sau đó, Knowles cũng đã phát hành album phòng thu thứ ba của mình mang tên ''[[I Am... Sasha Fierce|I Am… Sasha Fierce]]''. Vào mùa hè 2009, Williams đã lập nên lịch sử khi trở thành [[người da màu]] đầu tiên thủ vai [[Roxie Hart]] trong vở nhạc kịch ''[[Chicago (nhạc kịch)|Chicago]]'' trên sân khấu [[West End của Luân Đôn|West End]] của London.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/428/michelle_williams_heart_to_heart/ Michelle Williams: Heart to Heart]. ''Blues & Soul''. July 2009.</ref> Vào tháng 6 2010, Rowland đã phát hành đĩa đơn "[[Commander (bài hát)|Commander]]", trích từ album sắp phát hành của cô là ''[[Here I Am (album của Kelly Rowland)|Here I Am]]''.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/546/kelly_rowland_fulfilling_destiny/ Kelly Rowland: Fulfilling Destiny]. ''Blues & Soul''. June 2010.</ref> Beyoncé sau đó cũng đã phát hành đĩa đơn "[[Run the World (Girls)]]" từ album thứ tư của cô là ''[[4 (album của Beyoncé Knowles)|4]]'', vào tháng 4 2011.
Dòng 110:
Vào năm 2005, nhà sản xuất âm nhạc [[David Foster]], con gái của ông Amy Foster-Gillies và Knowles đã cùng nhau viết ca khúc cho ngày [[Quốc tế Thiếu Nhi]] mang tên "[[Stand Up For Love]]", một sự kiện mang tính toàn cầu diễn ra hàng năm nhằm nâng cao ý thức và gây quỹ vì trẻ em. Sau ba năm qua, hơn 50 triệu đô-la đã được mọi người đóng góp và đã đưa đến Nhà tình thương Ronald McDonald và các tổ chức trẻ em khác. Destiny's Child đã trở thành đại sứ toàn cầu của chương trình này vào năm 2005.<ref>{{chú thích báo |title=Destiny's Child Releases New Anthem for World Children's Day at McD's |url=http://www.mcdonalds.com.sg/pr_27sep2005.html |work=McDonalds's Singapore|date = ngày 27 tháng 9 năm 2005 |accessdate = ngày 21 tháng 7 năm 2010}}</ref>
 
Rowland, Knowles cùng gia đình Knowles đã thành lập Quỹ Survivor, vì mục đích cung cấp nhà tạm trú cho những nạn nhân và những người di tản từ trận [[Bão Katrina]] thuộc Houston, Texas. Quỹ Survivor cũng đã mở rộng thêm 'Knowles-Rowland Center For Youth', một dịch vụ cộng đồng đa mục đích ở khu vưc thương mại của Houston.<ref name="Moss#1's"/> Vào [[Sự kiện 11 tháng 9]], Destiny's Child đã hủy chuyến lưu diễn châu Âu và biểu diễn trong một chương trình từ thiện.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
== Phong cách trình diễn và âm nhạc ==
{{Listen|filename=Beyonce Dangerously in Love, live.ogg|title="Destiny's Child - "Dangerously In Love" (Trực tiếp tại Atlanta)"|description=Trích đoạn ca khúc "Dangerously In Love", được trình bày trực tiếp tại Atlanta. Đây là một trong những ca khúc thành viên Beyoncé Knowles đảm nhiệm vai trò hát chính.}}
 
Destiny's Child thường ghi âm những ca khúc [[Rhythm and blues|R&B]] với những phong cách gồm [[urban]], [[rhythm and blues|đương đại]] và [[dance-pop]].<ref>{{chú thích web|url={{Allmusic|class=artist|id=p278369|pure_url=yes}}|title=Destiny's Child: Biography|last=Huey|first=Steve|work=Allmusic|publisher=Macrovision Company|accessdate = ngày 4 tháng 8 năm 2008}}</ref> Destiny's Child đã tiết lộ rằng ca sĩ [[Janet Jackson]] chính là một trong những nguồn cảm hứng của họ.<ref>{{chú thích báo|url=http://new.music.yahoo.com/destinys-child/news/artist-name-destinys-child-id-1032152-inspired-by-artist-name-janet-jackson-id-1013012--12056577|title=Inspired By Janet Jackson|last=Atwood|first=Brett|date = ngày 11 tháng 1 năm 2001 |publisher=Yahoo!|accessdate = ngày 21 tháng 7 năm 2011}}</ref> Ann Powers của tờ ''[[The New York Times]]'' mô tả âm nhạc của Destiny's Child "rất tươi mới và đầy cảm xúc... những cô gái này có những ca khúc những bản phối hay nhất, những đoạn nhạc khéo léo nhất và đặc biệt những giai điệu hợp thời nhất."<ref name="PowersFeminism">{{citechú newsthích báo|url=http://www.nytimes.com/2001/04/29/arts/music-in-tune-with-the-new-feminism.html?pagewanted=all&src=pm|title=Destiny's Child: In Tune With the New Feminism|last=Powers|first=Ann|date =2001-04- ngày 29 tháng 4 năm 2001 |work=The New York Times|accessdate = ngày 7 tháng 1 năm 2014-01-07}}</ref> Cũng trên tờ ''New York Times'', Jon Pareles cho rằng thứ âm thanh làm nên Destiny's Child, bên cạnh giọng hát của Knowles, "là cách mà những giai điệu lên và xuống trong nhịp 2/2. Trên những ca khúc có tiết tấu [[đảo phách]], giòn giã, những đoạn chính lưu loát nhanh chóng luân phiên với những điệp khúc mượt mà hơn."<ref>{{chú thích báo|url=http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9401E6DE1E3FF932A3575BC0A9639C8B63&fta=y&scp=36&sq=Destiny%27s%20child&st=cse|title=POP REVIEW; Empowerment, Allure And a Runway's Flair |last=Pareles|first=Jon|date = ngày 1 tháng 8 năm 2005 |work=The New York Times|accessdate = ngày 27 tháng 2 năm 2009}}</ref> Nhóm chủ yếu hòa giọng của họ trong những bài hát, nhất là trong các bản ballad. Chủ yếu trong các ca khúc, mỗi thành viên thường hát đơn đoạn chính và hát cùng nhau ở đoạn điệp khúc. Nhưng trong album ''Survivor'', mỗi thành viên đều trình diễn chính các ca khúc trong album:<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> "... giờ đây mọi người đã trở thành một phần của âm nhạc... Các thành viên đều hát chính trong các ca khúc và nó rất tuyệt — vì vậy, Destiny's Child giờ đây đang ở giai đoạn đỉnh cao về giọng hát và tinh thần."<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1443010/20010420/destinys_child.jhtml|title='Bootylicious' Destiny's Child Sample Stevie Nicks, More On Survivor|last=Basham|first=David|date = ngày 20 tháng 4 năm 2001 |publisher=MTV|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Nhưng trong album, Knowles đảm nhiệm vai trò hát chính hoàn toàn trong các ca khúc như "Brown Eyes" và "[[Dangerously in Love (bài hát)|Dangerously in Love]]". Các bài hát của nhóm thường có lời nhạc về tình yêu đôi lứa, tình chị em hay là các bản nhạc về nữ quyền.
 
''Survivor'' gồm những chủ đề mà công chúng xem như là việc ám chỉ về xung đột nội bộ của nhóm. Ca khúc dẫn đầu, "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]", chính là chủ đề của toàn bộ album,<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> nổi bật với ca từ "I'm not gonna blast you on the radio... I'm not gonna lie on you or your family... I'm not gonna hate you in the magazine" (Tạm dịch: "Tôi sẽ không công kích bạn trên sóng phát thanh... Tôi sẽ không nói dối về bạn và gia đình bạn... Tôi sẽ không ghét bạn trên tờ tạp chí...) khiến LaTavia và LeToya đâm đơn kiện nhóm nhạc; lời bài hát đã bị coi là một trong những vi phạm thỏa thuận của họ tại tòa án.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong một buổi phòng vấn, Knowles đã bình luận: "Lời nhạc của bài hát 'Survivor' chính là câu chuyện của Destiny's Child, bởi vì chúng tôi đã trải qua rất nhiều thứ, ... Chúng tôi đã vượt qua sự khó khăn với các thành viên... Bất cứ những điều phức tạp mà chúng tôi có trong thời gian 10 năm qua đã giúp chúng tôi gần nhau, xiết chặt bên nhau và mạnh mẽ hơn."<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Một ca khúc khác có tên "Fancy", có lời nhạc là "You always tried to compete with me, girl... find your own identity" (Tạm dịch: "Bạn luôn luôn muốn ganh đua với tôi, cô gái... Hãy đi tìm chính bản thân mình đi") được nhận định bởi nhà phê bình [[David Browne]] cho tạp chí ''[[Entertainment Weekly]]'', tương như một phản ứng đối với vụ kiện.<ref name="BrowneSurvivor">{{chú thích web|url=http://www.ew.com/ew/article/0,,108583,00.html|title=Survivor (2008): Destiny's Child|last=Browne|first=David|date = ngày 7 tháng 5 năm 2001 |work=Entertainment Weekly|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Stephen Thomas Erlewine của [[AllMusic|Allmusic]] nhận xét ''Survivor'' là "một đĩa nhạc kiên quyết, bướng bỉnh với mục đích chứng minh rằng Destiny's Child có tài năng nghệ thuật, phần lớn nhờ việc họ đã sống sót qua sự tranh chấp nội bộ... Bản thu ấy cố trở thành một lời tuyên bố dũng cảm cuối cùng lại gây cảm giác bị ràng buộc và giả tạo."<ref>{{chú thích web|url={{Allmusic|class=album|id=r528778|pure_url=yes}}|title=Survivor: Destiny's Child|last=Erlewine|first=Stephen Thomas|publisher=Allmusic|accessdate = ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Dù có giành những lời khen tăng đối với những đĩa nhạc của nhóm nhưng sự tham gia quá dày đặc của Knowles trong những dự án đã gây ra những chỉ trích. Knowles viết và sản xuất hầu hết các ca khúc của ''Survivor''.<ref name="DunnDate">{{citechú newsthích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date =2001-06- ngày 10 tháng 6 năm 2001 |work=The Observer|accessdate =2009-02- ngày 27 tháng 2 năm 2009 | location=London}}</ref> Browne cho rằng cô đã giúp ''Survivor'' "một album còn non nớt, nhưng không thể tránh khỏi, thể hiện những khó khăn khi nhóm đến tuổi trưởng thành".<ref name="BrowneSurvivor">{{citechú newsthích báo|url=http://www.ew.com/ew/article/0,,108583,00.html|title=Survivor (2008): Destiny's Child|last=Browne|first=David|date = ngày 7 tháng 5 năm 2001-05-07 |work=Entertainment Weekly|accessdate =2009-02- ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
== Hình ảnh công chúng ==
[[Tập tin:Nobel Peace Prize Concert 2008 Diana Ross1.jpg|nhỏ|Nghệ sĩ R&B [[Diana Ross]], giọng nữ chính của nhóm [[The Supremes]], bị đánh đồng với Beyoncé Knowles. (Hình ảnh: Harry Wad)]]
Destiny's Child đã được đem so sánh với nhóm [[The Supremes]], một nhóm nhạc thập niên 1960, và Knowles đã bị đánh đồng với [[Diana Ross]], giọng nữ chính của The Supremes; Knowles sau đó đã bác bỏ sự so sánh này.<ref name="Anthony">{{cite news |last=Anthony |first=James |title='Of course you can lose yourself' |url=http://arts.guardian.co.uk/filmandmusic/story/0,,1852025,00.html |work=The Guardian |date=2006-08-18 |accessdate=2008-05-13 | location=London}}</ref> Thật trùng hợp là sau đó, cô đã vào vai dựa trên hình mẫu của Ross trong bộ phim ''[[Giấc mơ danh vọng|Dreamgirls]]'' với tên Deena Jones, giọng nữ chính của nhóm The Dreams. Với vai trò được cho là rất lớn của Knowles trong việc sản xuất ''Survivor'', Gil Kaufman của [[MTV]] cho rằng "rõ ràng là Beyoncé trở nên quan trọng với vai trò là người trưởng nhóm và gương mặt công chúng của DC".<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> Sự thống trị của cô về sự sáng tạo trong album đã khiến album "gần như là tác phẩm của cô".<ref name="BrowneSurvivor">{{citechú newsthích báo|url=http://www.ew.com/ew/article/0,,108583,00.html|title=Survivor (2008): Destiny's Child|last=Browne|first=David|date = ngày 7 tháng 5 năm 2001-05-07 |work=Entertainment Weekly|accessdate =2009-02- ngày 26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Lola Ogunnaike của ''[[The New York Times]]'' cho rằng "Lâu nay trong nền công nghiệp âm nhạc, người ta tin rằng Destiny's Child không hơn gì một bệ phóng cho sự nghiệp solo tất yếu của Beyoncé Knowles."<ref name="LolaDate">{{chú thích báo|url=http://www.nytimes.com/2004/11/14/arts/music/14ogun.html|title=Beyoncé's Second Date With Destiny's Child|last=Ogunnaike|first=Lola|date = ngày 14 tháng 11 năm 2004 |work=The New York Times|accessdate = ngày 27 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
Sau ''Dangerously in Love'' của Knowles, có những tin đồn lan truyền về sự tan rã có thể xảy ra với Destiny's Child khi mỗi thành viên đã trải nghiệm sự thành công và có những dự án đang được tiếp tục.<ref name="GilSplit">{{chú thích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child Announce Split |url=http://www.mtv.com/news/articles/1503975/20050612/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 12 tháng 6 năm 2005 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref><ref name="Tanya">{{chú thích báo |last=Edwards |first=Tanya |title=Will 'NSYNC Or Destiny's Child Ever Record Another Album |url=http://www.mtv.com/news/articles/1457698/20020920/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 23 tháng 9 năm 2002 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Người ta đã so sánh với trường hợp của ca sĩ [[Justin Timberlake]], người đã không trở lại nhóm [['N Sync]] vì sự thành công của album đầu tay của anh, ''[[Justified]]''.<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="Tanya">{{Citechú newsthích báo |last=Edwards |first=Tanya |title=Will 'NSYNC Or Destiny's Child Ever Record Another Album |url=http://www.mtv.com/news/articles/1457698/20020920/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2002-09- ngày 23 tháng 9 năm 2002 |accessdate =2008-05- ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Rowland đã phản đối tin đồn này và tuyên bố rằng họ sẽ trở lại với nhóm<ref>{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child Back In The Studio, So 'Shut Up!' Kelly Rowland Says |url=http://www.mtv.com/news/articles/1489338/20040709/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date = ngày 9 tháng 7 năm 2004 |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Họ cho rằng sự tái hợp này là điều được dự định từ trước<ref name="Kaufman">{{Citechú newsthích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date =2005-06- ngày 13 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-04- ngày 13 tháng 4 năm 2008}}</ref> và mối quan hệ thân thuộc của họ đã giúp họ gắn kết với nhau.<ref name="MossReunited">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child: Reunited And It Feels So Good (Part 1) |url=http://www.mtv.com/bands/d/destinys_child/news_feature/041108/ |work=MTV News |accessdate = ngày 13 tháng 5 năm 2008}}</ref> Margeaux Watson, biên tập viên mỹ thuật của ''Suede'' chia sẻ rằng "ngôi sao này không muốn trở nên thiếu trung thành với những đồng sự cũ", và gọi việc trở lại của Knowles là một "việc từ thiện".<ref name="LolaDate"/> Mẹ của Knowles, Tina, đã viết một quyển sách mang tên ''Destiny's Style: Bootylicious Fashion, Beauty and Lifestyle Secrets From Destiny's Child'', xuất bản năm 2002, miêu tả về việc thời trang đã ảnh hưởng lên sự thành công của Destiny's Child như thế nào.<ref>{{chú thích báo|title=Book Excerpt: Destiny's Style |url=http://abcnews.go.com/GMA/WinterConcert/story?id=125692| work=ABC News|accessdate = ngày 29 tháng 10 năm 2009}}</ref>
 
== Danh sách đĩa nhạc ==