Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Bắc Kinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung, Excuted time: 00:00:25.7675765
Dòng 1:
{{Tên gọi Bắc Kinh}}
'''[[Bắc Kinh]]''' có lịch sử lâu dài và phong phú, truy nguyên từ cách nay 3.000 năm.<ref>{{chú thích sách|author=Steve Luck|title=Oxford's American Desk Encyclopedia|publisher=[[Oxford University Press US]]|page=89|isbn=0-19-521465-X|url=http://books.google.com/?id=o8MdoOd6pOcC&printsec=frontcover&dq=The+American+desk+encyclopedia#v=onepage&q&f=false|quote=A settlement since c. 1000 BC, Beijing served as China's capital from 1421 to 1911.|date =1998-10- ngày 22 tháng 10 năm 1998}}</ref><ref>{{chú thích sách|title=The Asian city: processes of development, characteristics, and planning|author=Ashok K. Dutt|isbn=0-7923-3135-4|url=http://books.google.com/?id=zjASWo54WKgC&printsec=frontcover&dq=The+Asian+city:+processes+of+development,+characteristics,+and+planning#v=onepage&q&f=false|publisher=[[Springer (nhà xuất bản)|Springer]]|page=41|quote=Beijing is the quintessential example of traditional Chinese city. Beijing's earliest period of recorded settlement dates back to about 1045 BC.|year=1994}}</ref> Trước khi [[Tần Thủy Hoàng]] [[Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần|thống nhất]] Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô của nước [[Kế (nước)|Kế]] rồi nước [[Yên (nước)|Yên]] trong hàng thế kỷ. Trong thiên niên kỷ đầu tiên của các [[triều đại Trung Quốc|triều đại phong kiến Trung Hoa]], Bắc Kinh là thủ phủ cấp địa phương tại [[Hoa Bắc]]. Vị thế của Bắc Kinh được nâng cao trong khoảng thời gian từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 13, khi các sắc dân du mục là [[Khiết Đan]] và [[Nữ Chân]] tiến về phương nam và biến Bắc Kinh thành bồi đô và thủ đô của [[nhà Liêu]] và [[nhà Kim]]. Lần đầu tiên toàn bộ Trung Hoa được cai quản từ một triều đình đặt tại Bắc Kinh là sau khi [[Hốt Tất Liệt]] xây dựng kinh thành [[Đại Đô]] của [[nhà Nguyên]]. Sau thời Nguyên, Bắc Kinh giữ vai trò là thủ đô, nơi đặt trụ sở chính quyền trung ương của [[nhà Minh]] (giai đoạn 1421-1644) và [[nhà Thanh]], [[Trung Hoa Dân Quốc]] (1912–1928) và [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] (1949–nay).
 
==Thời tiền sử==
Dòng 23:
 
Các nhà khảo cổ học phát hiện ra hơn 40 khu định cư và điểm an táng thuộc thời đại đồ đá mới trên khắp Bắc Kinh. Đáng chú ý nhất là di chỉ Chuyển Niên thuộc huyện [[Hoài Nhu]]; mộ táng người Đông Hồ Lâm thuộc huyện [[Môn Đầu Câu]]; di chỉ Thượng Trạch và Bắc Niệm Đầu thuộc huyện [[Bình Cốc]]; di chỉ Trấn Giang Doanh thuộc huyện Phòng Sơn; di chỉ Tuyết Sơn thuộc huyện [[Xương Bình]].<ref>{{zh icon}} [http://www.bjww.gov.cn/2005/8-4/13318.html 北京历史的开端-原始聚落的产生和发展] 2013-04-17</ref><ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 41–42</ref> Các di chỉ này cho thấy hoạt động [[nông nghiệp]] trở nên phổ biến tại khu vực từ 6.000 đến 7.000 năm trước. Đồ gốm trang trí và ngọc chạm khắc tại các nền văn hóa Thượng Trạch và Tuyết Sơn cho thấy sự tương đồng với [[văn hóa Hồng Sơn]] ở xa hơn về phía bắc.<ref>{{chú thích sách|author1=Kwang Chih Chang|author2=Pingfang Xu|title=The Formation of Chinese Civilization:
An Archaeological Perspective|publisher=[[Yale University Press]]|year=2005|pages=54–55|isbn=0300093829|http://books.google.com/books?id=sP-PN2StH2cC&dq=%22hongshan+culture%22+xueshan&source=gbs_navlinks_s|accessdate =2013-03- ngày 22 tháng 3 năm 2013}}</ref>
 
==Thời kỳ tiền phong kiến==
Dòng 60:
Vào thời [[Tây Chu]] hoặc đầu thời [[Đông Chu]], nước Yên chinh phục nước Kế và chuyển quốc đô đến Kế thành, Kế thành không bị đổi tên cho đến thế kỷ 2 CN.<ref name="Shangdu"/> Do có mối quan hệ lịch sử với nước Yên, thành Bắc Kinh thường cũng được gọi là '''Yên Kinh''' (燕京).<ref group=Note name=YanCapital/><ref name="Shangdu"/><ref name="Linyi">{{zh icon}} [http://www.yanduyizhi.com/ydyj3.htm "走进燕国 >> 燕都遗迹 >> 易都—容城南阳遗址、雄县古贤村遗址"] Truy cập 2012-12-13</ref><ref name="Yan Zhongdu">{{zh icon}} [http://www.yanduyizhi.com/ydyj4.htm "走进燕国 >> 燕都遗迹 >> 中都——窦店古城"] Truy cập 2012-12-13</ref><ref name="Xiadu">{{zh icon}} [http://www.yanduyizhi.com/ydyj5.htm "走进燕国 >> 燕都遗迹 >> 下都—河北易县燕下都遗址"] Truy cập 2012-12-13</ref>
 
Nước Yên tiếp tục khuếch trương lãnh thổ và trở thành một trong [[Bảy cường quốc thời Chiến Quốc|Chiến Quốc thất hùng]].<ref name="hist">{{chú thích web|title=Beijing's History|url=http://china.org.cn/english/features/beijing/30785.htm|publisher=China Internet Information Center|date=|accessdate = ngày 1 tháng 5 năm 2008-05-01}}</ref> Lãnh thổ nước Yên trải dài từ [[Hoàng Hà]] đến [[sông Áp Lục|Áp Lục Giang]].<ref>Vào thế kỷ 3 TCN, dòng chảy Hoàng Hà ở xa về phía bắc so với ngày nay, đổ ra [[Bột Hải (biển)|Bột Hải]] ở phía nam [[Thiên Tân]].</ref> Nước Yên phải đối mặt với mối đe dọa từ các sắc dân du mục trên thảo nguyên, vì thế nước này cho xây dựng công sự có tường bao quanh ở biên giới phía bắc. Dấu vết của Yên Trường Thành tại huyện Xương Bình có niên đại từ năm 283 TCN.<ref>[http://www.thegreatwall.com.cn/aboutgreatwall/history2/zhanguo/yan/news.html 关于燕长城的资料整理(一)] Truy cập 2010-10-22</ref>
 
Năm 226 TCN, Kế thành thất thủ trước cuộc xâm lược của [[Tần (nước)|nước Tần]], nước Yên buộc phải rời đô đến [[Liêu Đông]].<ref>[[#CASS|CASS 1985]]: 13-14</ref> Nước Tần tiêu diệt hoàn toàn nước Yên vào năm 222 TCN. Năm sau đó, khi hoàn thành [[Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần|thống nhất Trung Hoa]], quốc quân nước Tần xưng là [[Tần Thủy Hoàng]].
Dòng 66:
==Thời kỳ phong kiến ban đầu==
[[Tập tin:Celadon standing man figure, Haidian Museum, Wei Dynasty.jpg|nhỏ|phải|Đồ gốm nam đứng được chôn khi an táng ([[thanh từ]]) từ thời [[Tào Ngụy]], khai quật tại Bát Lý Trang thuộc khu [[Hải Điến]], nay đặt tại Bảo tàng Hải Điến.]]
Trong thiên niên kỷ đầu tiên của thời kỳ phong kiến Trung Hoa, Bắc Kinh là một thủ phủ cấp địa phương ở phía Bắc Trung Hoa. [[Triều đại Trung Quốc|Các triều đại Trung Hoa]] đặt thủ đô tại [[Trung Nguyên]] và [[Quan Trung]] lấy thành này làm nơi quản lý mậu dịch và quan hệ quân sự với các sắc dân du mục ở phía bắc và đông bắc.<ref name=BTVU3.1>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_1.htm 北京历史与文化,第三讲 屏障中原的军事重镇- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-01-06</ref>
 
[[Nhà Tần]] xây dựng nên một nhà nước tập trung cao độ và phân quốc gia thành 48 quận, hai trong số đó nằm trên địa phận Bắc Kinh ngày nay. Kế thành trở thành trị sở của '''Quảng Dương quận''' (广阳郡). Ở phía bắc, huyện [[Mật Vân]] ngày nay thuộc Ngư Dương quận. Tần loại bỏ các thành lũy phòng thủ phân chia các nước từ thời [[Chiến Quốc]], bao gồm cả tường thành phía nam của Yên, tách đồng bằng Bắc Kinh với Trung Nguyên, và xây dựng mạng lưới giao thông đường bộ quốc gia.<ref name=BTVU3.1>{{zh icon}}[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_1.htm 北京历史与文化,第三讲 屏障中原的军事重镇] Truy cập 2013-01-06</ref> Kế thành là ngã ba của các tuyến đường nối Trung Nguyên với Mông Cổ và Mãn Châu.<ref name=BTVU3.1>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_1.htm 北京历史与文化,第三讲 屏障中原的军事重镇- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-01-06</ref> Tần Thủy Hoàng tuần thú Kế thành vào năm 215 TCN, và để bảo vệ biên thùy trước mối đe dọa từ [[Hung Nô]], ông hạ lệnh cho xây dựng [[Cư Dung quan]] tại Ngư Dương quận.<ref name=BTVU3.1>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_1.htm 北京历史与文化,第三讲 屏障中原的军事重镇- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-01-06</ref>
 
Sang thời [[nhà Hán]], triều đình thoạt đầu phục hồi một số quyền tự chủ địa phương. [[Hán Cao Tổ]] Lưu Bang tái tổ chức một số chư hầu quốc, trong đó có Yên quốc do [[Tạng Đồ]] cai quản (Tạng Đồ hưởng ứng cuộc nổi dậy chống Tần, chiếm cứ Kế thành và sát cánh với Lưu Bang trong [[Chiến tranh Hán-Sở|Hán-Sở tranh hùng]]). Sau khi Tạng Đồ nổi dậy phản Hán và bị xử tử, Hán Cao Tổ phong Yên quốc cho bằng hữu từ thuở nhỏ của mình là [[Lư Quán]]. Lư Quán sau đó bị Hán Cao Tổ nghi ngờ, vì thế phải bỏ Kế thành và chạy sang Hung Nô. Bát tử [[Lưu Kiến (Yên vương)|Lưu Kiến]] của Hán Cao Tổ chiếm quyền kiểm soát Yên quốc, và sau đó Yên quốc do các thân vương cai trị, trị sở đặt tại Kế thành. Về sau, Yên quốc được gọi là '''Yên quận''' (燕郡), và '''Quảng Dương quốc''' (广阳国). Vào đầu thời Tây Hán, bốn huyện của Quảng Dương quốc có 20.740 hộ và khoảng 70.685 khẩu.<ref name= "Ancient Population ">{{zh icon}} [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref><ref group=Note name=HistoricalCensus/>
Dòng 75:
Năm 106 TCN, dưới thời [[Hán Vũ Đế]], Đại Hán được tái tổ chức thành 13 châu, Kế thành là thủ phủ của '''[[U châu]]''' (幽州). phát hiện được lăng mộ của Quảng Dương vương [[Lưu Kiến (Quảng Dương vương)|Lưu Kiến]] (cai trị U châu từ 73 TCN - 45 TCN) vào năm 1974 tại khu Phong Đài, được bảo tồn tại Bảng tàng mộ Tây Hán Đại Bảo Đài.<ref>''xem'' [http://www.dbtxhm.org.cn/bwgjj1.html Museum Website] và [http://www.apolloinvestment.com/DabaotaiHan/DabaotaiHan.htm "Dabaotai Han Mausoleum in Beijing"]</ref> Năm 1999, phát hiện được một mộ hoàng gia khác tại Lão Sơn thuộc khu [[Thạch Cảnh Sơn]] song không thể xác định danh tính vị thân vương được an táng trong mộ.<ref>[http://www.hartford-hwp.com/archives/55/841.html Koh Cherng Phing, "Tomb could reveal secrets of Han dynasty" ''The Straits Times''] 2000-09-01</ref><ref>{{zh icon}}[http://www.2000888.com/www/wenhuaqikan/0821/hanmu/fhm2.html "偶然侦破一宗盗墓案发现老山西汉陵"]</ref>
 
Vào đầu thời Đông Hán, năm 57 CN, năm huyện của Quảng Dương quận có 44.550 hộ và khoảng 280.600 khẩu.<ref name= "Ancient Population ">(Chinese) [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref><ref group=Note name=HistoricalCensus/> Theo [[mật độ dân số]], Quảng Dương nằm trong 20 quận đứng đầu trong 105 quận trên toàn quốc.<ref name= "Ancient Population ">(Chinese) [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref> Vào cuối thời Đông Hán, [[Khởi nghĩa Khăn Vàng|Loạn Hoàng Cân]] nổ ra tại Hà Bắc vào năm 184 và quân nổi dậy chiếm được U châu trong một thời gian ngắn. Triều đình Đông Hán dựa vào quân đội địa phương để đẩy lui cuộc nổi dậy và U châu tiếp sau lần lượt nằm dưới quyền kiểm soát của các quân phiệt [[Lưu Ngu]], [[Công Tôn Toản]], [[Viên Thiệu]] và [[Tào Tháo]].<ref name=BTVU3.2>{{zh icon}}[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_2.htm 北京历史与文化,第三讲 二、中央政府与地方势力的较量 ] Truy cập 2013-01-06</ref> Năm 194, Viên Thiệu với sự giúp đỡ của người [[Ô Hoàn]] và [[Tiên Ti]] công chiếm Kế thành từ tay Công Tôn Toản.<ref name=BTVU3.2>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_2.htm 北京历史与文化,第三讲 二、中央政府与地方势力的较量 - Beijing Radio Television University] Accessed 2013-01-06</ref> Tào Táo đánh bại Viên Thiệu trong [[trận Quan Độ]] năm 200 và đánh bại người Ô Hoàn trong [[trận Bạch Lang Sơn]] vào năm 207, bình định phương Bắc Trung Hoa.<ref name=BTVU3.2>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_2.htm 北京历史与文化,第三讲 二、中央政府与地方势力的较量 - Beijing Radio Television University] Accessed 2013-01-06</ref>
 
Sang thời [[Tam Quốc]], [[Tào Ngụy]] kiểm soát 10 châu của Đông Hán, trong đó có U châu và thủ phủ Kế thành. Triều đình Tào Ngụy đặt các thể chế tại U châu để quản lý quan hệ với Ô Hoàn và Tiên Ti.<ref name=WeiKingdom/> Nhằm giúp duy trì đội quân đồn trú tại U châu, U châu thứ sử vào năm 250 cho xây dựng [[Lệ Lăng Yển]], hệ thống tưới tiêu này giúp nâng cao sản lượng nông nghiệp ở vùng đồng bằng quanh Kế thành lên rất nhiều.<ref name=WeiKingdom>{{zh icon}} [http://www.bjma.gov.cn/InfoShowRoll/InfoShowRolls.ycs?GUID=1166苏天钧, 魏晋十六国时期的幽州城, 北京城市历史地理] 2005-12-30</ref>
 
Kế thành bị hạ cấp làm huyện lị của Kế huyện dưới thời [[Tây Tấn]], Trác huyện lân cận (nay thuộc tỉnh Hà Bắc) trở thành thủ phủ của U châu. Vào đầu thế kỷ 4, triều Tây Tấn bị [[Ngũ Hồ]] [[Ngũ Hồ loạn Hoa|lật đổ]], các sắc dân du mục lập ra một loạt các quốc gia đoản mệnh ở phương Bắc Trung Hoa. Trong thời kỳ được gọi là [[Ngũ Hồ thập lục quốc]], khu vực Bắc Kinh từng thuộc về nước [[Hậu Triệu]] của người [[Yết]], nước [[Tiền Tần]] của [[người Đê]], nước [[Tiền Yên]] và [[Hậu Yên]] của người [[Tiên Ti]]. Năm 350, quân Tiền Yên chiếm được Kế thành từ Hậu Triệu, năm 352 [[Mộ Dung Tuấn]] dời đô từ Long Thành (龍城, nay thuộc [[Cẩm Châu]], [[Liêu Ninh]]) đến Kế thành, Kế thành trở thành thủ đô của một quốc gia độc lập lần đầu tiên trong vòng 500 năm.<ref name="Difangzhi">(Chinese) [http://www.oldbj.com/html-293/ "北京城市行政区划述略" 《北京地方志》] Accessed 2012-12-19</ref> 5 năm sau đó, thủ đô của Tiền Yên được chuyển đến [[Nghiệp (thành)|Nghiệp thành]] ở xa hơn về phía nam, nay thuộc nam bộ Hà Bắc.<ef name="Difangzhi"/> Một triều đại của người Tiên Ti là [[Bắc Ngụy]] thống nhất phương Bắc Trung Hoa vào năm 397, triều đình Bắc Ngụy chọn Kế thành làm thủ phủ của U châu. Vị thế thủ phủ châu của Kế thành vẫn được duy trì dưới các triều đại [[Đông Ngụy]], [[Bắc Tề]] và [[Bắc Chu]].
 
Năm 446, Bắc Ngụy cho xây dựng một đoạn Trường Thành từ Cư Dung quan về phía tây đến khu vực tỉnh Sơn Tây ngày nay, mục đích là để bảo vệ kinh đô [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]] trước người [[Nhu Nhiên]].<ref>{{zh icon}} [http://www.thegreatwall.com.cn/aboutgreatwall/history2/beiwei/ 北魏长城简介] Accessed 2013-01-20</ref> Trong giai đoạn 553-556, Bắc Tề mở rộng Trường Thành về phía đông đến Bột Hải để phòng thủ người [[Đột Quyết]], người Đột Quyết sau đó tập kích U châu vào các năm 564, 578 và 581.<ref>{{zh icon}} [http://www.thegreatwall.com.cn/aboutgreatwall/history2/beiqi/ 北朝北齐及前后朝长城修建情况资料调查] Truy cập 2013-01-20</ref><ref>{{zh icon}} [http://www.bjww.gov.cn/2006/4-12/152344.html北齐长城调查小记] Truy cập 2013-01-20</ref> Hàng thế kỷ chiến loạn khiến dân số phương Bắc Trung Hoa suy giảm nghiêm trọng. Dưới thời Đông Ngụy (534-550), U châu, An châu (nay là Mật Vân) và Đông Yên châu (nay là Xương Bình) có tổng cộng 46.000 hộ và khoảng 170.000 khẩu.<ref name= "Ancient Population ">(Chinese) [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref><ref group=Note name=HistoricalCensus/>
 
[[Tập tin:Fayuan Temple1.JPG|nhỏ|phải|[[Pháp Nguyên tự]] tại khu [[Tây Thành, Bắc Kinh|Tây Thành]] được Đường Thái Tông Lý Thế Dân cho xây dựng lần đầu vào năm 645]]
Sau khi [[nhà Tùy]] thống nhất Trung Hoa vào năm 589, U châu được đổi thành '''Trác quận''', trị sở đặt ở Kế thành. Năm 609, Trác quận và An Lạc quận (nay là Mật Vân) lân cận có tổng cộng 91.658 hộ và khoảng 458.000 khẩu.<ref name= "Ancient Population ">(Chinese) [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref><ref group=Note name=HistoricalCensus/> [[Tùy Dạng Đế]] cho xây dựng một mạng lưới kênh đào từ Trung Nguyên đến Trác quận để vận chuyển quân lương cho [[chiến tranh Tùy-Cao Câu Ly|chiến dịch tiến công]] [[Cao Câu Ly]]. Do là nơi tích trữ một lượng lớn tài vật, Trác quận trở thành mục tiêu tiến công của các cuộc khởi nghĩa nông dân. Trong số các tướng Tùy, duy có [[La Nghệ]] xuất chiến là có thể chiếm ưu thế trước quân nổi dậy tại Trác quận, song La Nghệ sau đó nổi dậy chống triều đình, chiếm cứ khu vực. La Nghệ quy phục nhà Đường, và sau khi đương đầu với [[Đậu Kiến Đức]], [[Cao Khai Đạo]] và [[Lưu Hắc Thát]] thì nhập triều làm quan. Năm 645, [[Đường Thái Tông]] cho xây dựng [[Pháp Nguyên tự]] cách Kế thành {{convert|3|km|abbr=on}} về phía đông nam để tưởng nhớ các tướng sĩ tử trận trong [[chiến tranh Đường-Cao Câu Ly|chiến dịch tiến công]] Cao Câu Ly. Pháp Nguyên tự nay thuộc khu Tây Thành, và là một trong các chùa cổ nhất trong nội thành Bắc Kinh.
 
Nhà Đường giảm quy mô lãnh thổ của một quận, đổi Trác quận lại thành U châu, U châu là một trong hơn 300 châu của Đường.<ref>[[#CASS|CASS 1985]]: 39-40</ref> Với việc lập ra một châu riêng biệt gọi là Kế châu (蓟州) thuộc địa phận [[Thiên Tân]] ngày nay vào năm 730, tên gọi Kế di chuyển từ Bắc Kinh sang Thiên Tân, và thành phố này nay vẫn tồn tại [[Kế (huyện)|Kế huyện]].<ref>{{zh icon}} [http://jixian.52njl.com/farm21.htm "古今的‘蓟县’,我今天才大概知道"] 2012-07-07</ref> Trong giai đoạn hưng thịnh đầu thời Đường, mười huyện của U châu có dân số tăng gấp ba lần từ 21.098 hộ với khoảng 102.079 khẩu lên 67.242 hộ với khoảng 371.312 khẩu vào năm 742.<ref name= "Ancient Population ">(Chinese) [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/index_02_01.htm 第一节 北京历代人口的发展状况及其特点] Accessed 2013-01-20</ref><ref group=Note name=HistoricalCensus/> Năm 742, U châu được đổi thành '''Phạm Dương quận''' (范阳郡), song đến năm 762 thì đổi lại thành U châu.
 
[[Tập tin:Guyaju ruins, Yanqing county, Beijing.JPG|nhỏ|trái|Diên Khánh cổ nhai cư thuộc huyện Diên Khánh được cho là nơi ở của [[người Hề]] vào thời [[nhà Đường|Đường]] và [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ Đại]].<ref>{{zh icon}} [http://www.ahcltv.com/folder8/folder1723/folder1729/2012/11/2012-11-2044169.html 北京延庆古崖居 探千古之谜] 2012-11-20</ref>]]
Để đề phòng các sắc dân du mục phương Bắc, triều đình Đường cho lập sáu đội quân biên thùy phương Bắc vào năm 711, U châu là nơi đặt căn cứ của [[U Châu tiết độ sứ|Phạm Dương tiết độ sứ]], được giao nhiệm vụ giám sát các sắc dân Khiết Đan và Hề ở ngay phía bắc tỉnh Hà Bắc hiện nay. Năm 755, tiết độ sứ [[An Lộc Sơn]] tiến hành nổi dậy từ Phạm Dương sau khi thất thế trong cuộc tranh giành quyền lực tại triều đình. An Lộc Sơn xưng là hoàng đế [[Đại Yên]], và tiếp tục chinh phục [[Lạc Dương]] và [[Tây An]] với một đội quân đa sắc tộc gồm: [[người Hán|Hán]], [[Đồng La]], Hề, Khiết Đan và [[Thất Vi]].<ref>{{zh icon}} [http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_92863_59631.html 《大唐如此江山》 十、最初的一个月] 2009-05-15</ref> Sau khi An Lộc Sơn chết, [[Sử Tư Minh]] tiếp tục cuộc nổi dậy từ Phạm Dương. Mộ của Sử Tử Minh được phát hiện tại thôn Lâm Gia Phần thuộc khu Phong Đài vào năm 1966 và được khai quật vào năm 1981.<ref>{{zh icon}} [http://www.sscqw.net/Article/yanjiuzuzhi/gdmr/200901/212.html 史思明墓] 2009-01-20</ref> [[Loạn An Sử]] kéo dài trong tám năm và khiến quốc lực triều Đường suy yếu nghiêm trọng. Trong 150 năm sau đó, các tiết độ sứ cai quản U châu theo hình thức tự trị.<ref name=BTVU3.3>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-02-08</ref><ref>{{zh icon}} [http://greatcourse.cnu.edu.cn/beijingshi/wlkc/learning/1_02_01.htm 第二章 秦汉至五代时期的北京(公元前221年至937年)] Truy cập 2013-02-10</ref>
 
Nhà Đường bị [[Hậu Lương]] thay thế vào năm 907, song khi đó U châu do tiết độ sứ [[Lưu Thủ Quang]] cai quản độc lập. Lưu Thủ Quang xưng là hoàng đế [[Yên (Ngũ đại)|triều Yên]] vào năm 911.<ref name=BTVU3.3>{{zh icon}}[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让] Truy cập 2013-02-08</ref><ref name="BJWW-Five Dynasties">(Chinese) [http://www.bjww.gov.cn/2006/4-12/16271.html 郗志群 & 王新迎, "试论五代前期幽州的军事与战争" Beijing Municipal Administration of Cultural Heritage] 2006-04-12</ref> Yên sụp đổ trước tướng người [[Sa Đà]] là [[Hậu Đường Trang Tông|Lý Tồn Úc]] vào năm 913, Lý Tồn Úc lập ra triều [[Hậu Đường]] vào năm 923.<ref name=BTVU3.3>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-02-08</ref> Sự tan rã của triều Đường và tình trạng hỗn loạn thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]] tạo điều kiện cho người Khiết Đan khuếch trương đến phương Bắc Trung Hoa, nâng cao vị thế của Bắc Kinh trong lịch sử Trung Quốc.<ref name=BTVU3.3>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-02-08</ref><ref name="BJWW-Five Dynasties">(Chinese) [http://www.bjww.gov.cn/2006/4-12/16271.html 郗志群 & 王新迎, "试论五代前期幽州的军事与战争" Beijing Municipal Administration of Cultural Heritage] 2006-04-12</ref>
 
[[Liêu Thái Tổ]] Da Luật A Bảo Cơ thống nhất người Khiết Đan vào năm 907, quân Khiết Đan bị đẩy lui bảy lần khi cố gắng tiến công U châu trong khoảng thời gian từ 917 đến 928.<ref name="BJWW-Five Dynasties">{{zh icon}} [http://www.bjww.gov.cn/2006/4-12/16271.html 郗志群 & 王新迎, "试论五代前期幽州的军事与战争"] 2006-04-12</ref> Năm 936, Liêu Thái Tổ tận dụng mối bất hòa trong triều đình Hậu Đường để giúp một tướng người Sa Đà khác là [[Thạch Kính Đường]] lập ra triều [[Hậu Tấn]].<ref name=BTVU3.3>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-02-08</ref> Thạch Kính Đường sau đó cắt nhượng [[Yên Vân thập lục châu]], trong đó có U châu cho [[nhà Liêu|triều Liêu]] của người Khiết Đan.<ref name=BTVU3.3>(Chinese)[http://media.openedu.com.cn/media_file/netcourse/asx/bjlswh/unit03/htm/01_4.htm 北京历史与文化,第三讲 四、藩镇割据与幽云十六州的割让- Beijing Radio Television University] Accessed 2013-02-08</ref>
 
== Thời Liêu và Kim ==
Dòng 123:
 
[[Tập tin:Siège de Beijing (1213-1214).jpeg|nhỏ|trái|Tranh mô tả quân Mông Cổ bao vây Trung Đô lần đầu vào 1213-1214, thành thất thủ trước đợt tấn công lần hai vào 1214-1215]]
Trung Đô đóng vai trò là thủ đô của Kim trong hơn 60 năm, cho đến khi [[chiến tranh Mông-Kim|bị Mông Cổ tiến công]] vào năm 1214.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 54</ref> Năm 1213, [[Thành Cát Tư Hãn]] kiểm soát được phần lớn lãnh thổ Kim ở phía bắc [[Hoàng Hà]], ngoại trừ Trung Đô. Vào tháng 3 năm 1214, Thành Cát Tư Hãn lập đại bản doanh ở vùng ngoại thành phía bắc Trung Đô cùng với nhị đệ là [[Chuyết Xích Hợp Tát Nhi]] và ba nhi tử là [[Truật Xích]], [[Sát Hợp Đài]], [[Oa Khoát Đài]] bắt đầu [[trận Trung Đô|bao vây thành]].<ref>[[#Ratchnevsky 1993|Ratchnevsky 1993]]: 112</ref> Mặc dù triều đình Kim suy yếu do một cuộc chính biến, song thành Trung Đô lại rất vững khắc với ba lớp hào và 900 tháp canh.<ref>{{chú thích sách|author=Stephen R. Turnbull|title=Genghis Khan & the Mongol conquests, 1190-1400|publisher=[[Osprey Publishing]]|year=2003|page=31|isbn=1-84176-523-6|http://books.google.com.hk/books?id=N2MMD0yfxyAC&pg=PA31&dq=zhongdu+1214+moat&hl=en&sa=X&ei=G6f0Ts3SEoqciAfJneHJAQ&ved=0CEgQ6AEwBA#v=onepage&q=zhongdu%201214%20moat&f=false|quote=[Zhongdu's] walls, which were built on stamped clay and crowned with crenellated brick battlements, measured 18 miles (28km) in circumference and reached a height of 12 m (40 feet). Twelve gates gave access to the city, and there were 900 towers and three lines of moats.|accessdate =2011-12- ngày 25 tháng 12 năm 2011}}</ref> Đến khi trong hàng ngũ quân Mông Cổ suất hiện dịch bệnh, Thành Cát Tư Hãn phái sứ giả [[người Hồi giáo]] là Ja'far vào thành Trung Đô đàm phán, triều đình Kim chấp thuận một thỏa thuận hòa bình mà theo đó Kim cắt đất và chấp thuận địa vị chư hầu. Thành Cát Tư Hãn yêu cầu được kết hôn với một công chúa Nữ Chân, [[Kì Quốc công chúa]]- nhi nữ của [[Kim Vệ Thiệu Vương]]- là người được lựa chọn.<ref>[[#Shanley 2008|Shanley 2008]]: 129</ref><ref>[[#Jiong Fan 1994|Jiong Fan 1994]]: 157</ref> Bà cùng với 10 đại tướng và 100 lính hộ giá, 500 đồng nam và đồng nữ, 3.000 bộ y phục lụa thêu, 3.000 ngự mã, nhiều kim cương châu báu đến doanh trại Mông Cổ.<ref>[[#Ratchnevsky 1993|Ratchnevsky 1993]]: 113-14</ref> Bà trở thành một trong "đệ tứ oát nhi đóa" của Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn sau đó bỏ việc bao vây và triệt thoái về phía bắc Cư Dung quan.
 
[[Kim Tuyên Tông]] sau khi bàn luận với quần thần, quyết định dời đô từ Trung Đô đến [[Khai Phong]] ở xa hơn về phía nam. Đến tháng 6 năm 1214, khi đoàn triều đình Kim dời khỏi thành, một đội cận vệ người Khiết Đan nổi dậy tại Lư Câu Kiều và đào thoát sang Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn cho rằng Kim đang cố tái gây dựng sức mạnh quân sự ở phương nam, vi phạm các điều khoản hòa bình, vì thế quyết định tái xâm lược Kim. Đến mùa đông, quân Mông Cổ lại bao vây Trung Đô.<ref>[[#Ratchnevsky 1993|Ratchnevsky 1993]]: 114</ref>
Dòng 158:
Khi [[Hốt Tất Liệt|Hốt Tất Liệt Hãn]] (cháu nội của [[Thành Cát Tư Hãn]]) thăm Yên Kinh vào năm 1261, phần lớn thành Trung Đô cũ, bao gồm hoàng cung, là đống đổ nát.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 134</ref> Hốt Tất Liệt ở tại Thái Ninh cung tại Quỳnh Hoa đảo trên Cao Lương Hà ở đông bắc Trung Đô.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 56</ref> Cung này do triều Kim xây dựng vào năm 1179 để làm nơi nghỉ ngơi thôn dã, khá giống với [[Di Hòa Viên]] thời [[nhà Thanh|Thanh]] sau này. Dù các thủ lĩnh Mông Cổ khác muốn duy trì căn cứ của liên minh bộ lạc truyền thống tại [[Cáp Lạp Hòa Lâm]] (Karakorum) ở [[Ngoại Mông]], Hốt Tất Liệt lại mong muốn trở thành hoàng đế của một đế chế toàn cầu. Hốt Tất Liệt dành bốn năm để chống lại các tù trưởng Mông Cổ kình địch và đến năm 1264 thì ra lệnh cho [[Lưu Bỉnh Trung]] xây dựng đô thành mới tại Yên Kinh. Trước đó, vào năm 1260, Hốt Tất Liệt cho xây dựng kinh đô tại [[Thượng Đô]], cách Yên Kinh {{convert|275|km|abbr=on}} về phía bắc, song ông vẫn ưa thích vị trí của Yên Kinh hơn.
 
Có [[bình nguyên Hoa Bắc]] rộng lớn ở phía nam và các thảo nguyên nằm ngay sau các dãy núi chạy qua phía bắc, Yên Kinh trở thành một điểm lý tưởng để Hốt Tất Liệt thiết lập căn cứ quyền lực. Năm 1271, Hốt Tất Liệt tuyên bố thành lập [[nhà Nguyên]] và đặt tên cho kinh thành là '''Đại Đô''',<ref name="economist">{{chú thích báo|title=Beijing — Historical Background|url=http://216.35.68.200/cities/findStory.cfm?city_id=BJS&folder=Facts-History|work=Cities Guide|work=[[The Economist]]|year=2008|accessdate = ngày 1 tháng 5 năm 2008-05-01}} {{Dead link|date=November 2010|bot=RjwilmsiBot}}</ref> hay ''Daidu'' trong tiếng Mông Cổ<ref>Denis Twitchett, Herbert Franke, John K. Fairbank, in ''The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States'' (Cambridge: Cambridge University Press, 1994), p 454.</ref>). Kinh thành cũng có tên Mông Cổ là '''Khanbaliq''' (汗八里, ''Hãn Bát Lý''), viết là ''Cambuluc'' trong các ghi chép của [[Marco Polo]]. Công việc xây dựng Đại Đô bắt đầu vào năm 1267 và cung điện đầu tiên hoàn thành vào năm sau. Toàn thể tổ hợp cung điện được hoàn thành vào năm 1274 và toàn thành được hoàn thành vào năm 1285.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 136</ref> Năm 1279, khi quân Nguyên [[chiến tranh Nguyên-Tông|tiêu diệt]] Nam Tống, Bắc Kinh lần đầu tiên trở thành thủ đô của toàn thể Trung Hoa. Sau khi xây dựng Đại Đô, Thượng Đô trở thành bồi đô của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.
 
Thay vì dựa trên nền tảng Trung Đô triều Kim, Đại Đô của triều Nguyên được xây dựng ở phía đông bắc và xây quanh Thái Ninh cung cũ trên đảo Quỳnh Hoa. Đại Đô có kích thước lớn gần gấp hai lần Trung Đô. So sánh với thành phố hiện nay, thành Đại Đô trải dài từ [[đường Trường An]] ở phía nam đến [[thành trì Bắc Kinh|tường thành Đại Đô bằng đất]] vẫn còn tồn tại ở phía bắc và đông bắc Bắc Kinh, giữa bắc [[đường vành đai 3 (Bắc Kinh)|đường vành đai 3]] và [[đường vành đai 4 (Bắc Kinh)|đường vành đai 4]].<ref>{{zh icon}} {{chú thích web|title=元大都土城遗址公园|url=http://www.tuniu.com/places/17645|work=Tuniu.com|accessdate =2008-06- ngày 15 tháng 6 năm 2008}}</ref> Thành có tường bằng đất dày 24 m với 11 cổng thành, hai cổng ở phía bắc và mỗi mặt còn lại có ba cổng. Do đó, Đại Đô có chiều rộng tương tự như thành Bắc Kinh thời Minh và Thanh. Trung tâm địa lý của Đại Đô được đánh dấu bằng một đình, nay là [[Cổ Lâu và Chung Lâu Bắc Kinh|Cổ Lâu]].
[[Tập tin:Beijing-Kongmiao.JPG|nhỏ|trái|180px|[[Bắc Kinh Khổng Miếu|Khổng Miếu]] tại khu [[Đông Thành, Bắc Kinh|Đông Thành]], được xây dựng vào năm 1302 dưới thời [[Nguyên Thành Tông]], là miếu thờ Khổng Tử lớn thứ hai tại Trung Quốc. Miếu có 198 bia đá khắc tên 51.624 ''tiến sĩ'' các triều Nguyên, Minh và Thanh.]]
Đặc điểm tự nhiên nổi bật nhất của Đại Đô là chuỗi hồ nằm ở trung tâm của thành. Các hồ này được tạo nên từ Cao Lương Hà chảy qua thành. Ngày nay, các hồ này được gọi là "Lục Hải" và nằm ở trung tâm Bắc Kinh: Hậu Hải, Tiền Hải và Tây Hải được gọi chung là [[Thập Sát Hải]], [[Công viên Bắc Hải (Bắc Kinh)|Công viên Bắc Hải]] và tổ hợp [[Trung Nam Hải]]. Đảo Quỳnh Hoa nay nằm trong công viên Bắc Hải và có một Bạch tháp. Giống với các lãnh tụ Trung Quốc ngày nay, hoàng tộc triều Nguyên sống ở phía tây các hồ tại Hưng Thánh cung và Long Phúc cung.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 146</ref> Một cung thứ ba nằm ở phía đông các hồ, được gọi là Đại Nội, nơi đặt các cơ quan của đế chế. Việc xây dựng thành cần những người đến từ khắp phần [[châu Á]] của [[đế quốc Mông Cổ]], bao gồm người Hán cũng như từ khác nơi khác như [[Nepal]] và [[Trung Á]].<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 77</ref> Lưu Bỉnh Trung được bổ nhiệm làm người giám sát việc xây dựng hoàng cung và kiến trúc sư trưởng là [[Dã Hắc Điệt Nhi Đinh]] (也黑迭兒丁). Các gian nhà trong cung điện được xây theo các phong cách kiến trúc khác nhau trên khắp đế quốc. Toàn bộ tổ hợp cung điện bao trùm phần nam-trung của Đại Đô. Theo truyền thống Trung Hoa, các đền thờ tổ tiên và việc thu hoạch được xây dựng tương ứng ở phía tây và phía đông của cung điện.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 138</ref>
Dòng 166:
Với việc có Cao Lương Hà chảy qua, nguồn cung cấp nước của Đại Đô dồi dào hơn so với Kế thành, U châu và Nam Kinh trước đó. Nhằm tăng nguồn cung cấp nước hơn nữa, nhà thủy học thời Nguyên là [[Quách Thủ Kính]] phụng mệnh xây dựng nhiều kênh đào để dẫn nước suối từ Ngọc Tuyền Sơn ở tây bắc qua nơi mà ngày nay là [[hồ Côn Minh]] tại Di Hòa Viên cũng như [[công viên Tử Trúc Viện]] để đến Tích Thủy Đàm- một hồ chứa nước lớn trong Đại Đô.<ref name="Hou 1998 63">[[#Hou|Hou 1998]]: 63</ref> Việc mở rộng và kéo dài [[Đại Vận Hà]] từ Đại Đô đến [[Hàng Châu]] cho phép thành có thể nhập một lượng ngũ cốc lớn hơn để nuôi sống dân cư ngày càng tăng lên. Năm 1270, Đại Đô có 418.000 cư dân nội thành cùng với 635.000 cư dân sống ở khu vực xung quanh.{{sfn|Han|1996|p=137}}<ref group=Note name=HistoricalCensus/> Năm 1327, Đại Đô có 952.000 cư dân nội thành và 2,08 triệu cư dân sống ở khu vực xung quanh.{{sfn|Han|1996|p=137}}
 
Khu vực dân cư của thành Đại Đô được bố trí theo hình bàn cờ, chúng được phân chia với các đại lộ rộng 25 m và các ngõ hẹp, gọi là ''[[hồ đồng]]'', rộng 6–7 m.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 136–37</ref> Ngày nay [[nhai đạo]] [[Đông Tứ]] là ví dụ minh họa tốt nhất cho cách bố trí này, khu có 14 ''hồ đồng'' song song, được gọi là 14 ''điều'' (条). Mỗi đại lộ đều có các cống ngầm để chứa nước mưa rồi chảy về phía nam thành.<ref>[[#Hou|Hou 1998]]: 73–74</ref> Các khu chợ chính của Đại Đô nằm ở Đông Tứ, Tây Tứ và bờ bắc của Tích Thủy Đàm.<ref name="Hou 1998 63">[[#Hou|Hou 1998]]: 63</ref>
 
Theo ý định của Nguyên Thế Tổ, thành Đại Đô thể hiện tính toàn cầu của đế chế Mông Cổ. Một số lữ khách ngoại quốc như [[Giovanni di Monte Corvino]], [[Odoric of Pordenone]], [[Marco Polo]] và [[Ibn Battuta]] để lại các tường thuật về chuyến viếng thăm thành của họ. Trong các cư dân của Đại Đô có [[Mã Trí Viễn]], [[Quan Hán Khanh]], [[Vương Thực Phủ]], họ nằm trong số những nhà văn nổi tiếng nhất thời Nguyên. Người Mông Cổ cũng cho xây dựng một đài thiên văn Hồi giáo và học viện Hồi giáo tại Đại Đô. [[Diệu Ứng tự]] gần [[Phụ Thành Môn]] do Hốt Tất Liệt cho xây dựng vào năm 1271. Ngôi chùa có một bạch tháp nổi tiếng do một kiến trúc sư người Nepal là [[Araniko]] thiết kế, nó hiện vẫn là một trong các [[phù đồ]] lớn nhất Trung Quốc.<ref>[http://english.cri.cn/4406/2008/07/29/1942s386831.htm " White Pagoda Temple" ''CRI''] 29 tháng 7 năm 2009</ref> [[Bắc Kinh Khổng Miếu|Khổng Miếu]] và [[Bắc Kinh Quốc Tử Giám|Quốc Tử Giám]] được hình thành trong thời gian trị vì của [[Nguyên Thành Tông]], người kế vị Nguyên Thế Tổ.
Dòng 237:
Nội Thành trụ lại sau [[sự biến Thổ Mộc bảo]] vào năm 1449, khi người [[Ngõa Lạt]] Mông Cổ bắt được [[Minh Anh Tông|Chính Thống Đế]] trong một chiến dịch quân sự tại [[Hoài Lai]]. Thủ lĩnh Ngõa Lạt là [[Dã Tiên]] sau đó vượt qua Trường Thành và tiến gần kinh thành nhà Minh, trong tay nắm giữ hoàng đế nhà Minh. Binh bộ thị lang [[Vu Khiêm]] từ chối yêu sách đòi tiền chuộc của Dã Tiên, bất chấp lời khẩn cầu của Hoàng đế. Vu Khiêm nói rằng trách nhiệm bảo vệ quốc gia được ưu tiên hơn so với chuyện sinh tử của Hoàng đế. Vu Khiêm bác bỏ lời kêu gọi dời đô về phương Nam của các quần thần khác, thay vào đó ông tôn hoàng đệ của Chính Thống Đế là Chu Kì Ngọc lên ngôi, tức [[Minh Đại Tông|Cảnh Thái Đế]], cũng như tập hợp 22 vạn lính bảo vệ kinh thành. Quân Minh với [[súng cầm tay]] và [[súng thần công]] phục kích đội kị binh Ngõa Lạt bên ngoài [[Đức Thắng Môn]], giết chết huynh đệ của Dã Tiên, và đẩy lui một cuộc tiến công khác tại Tây Trực Môn. Dã Tiên rút quân về Mông Cổ và ba năm sau trao trả Chính Thống Đế mà không cần tiền chuộc. Năm 1457, Chính Thống Đế giành lại ngai vàng và xử tử Vu Khiêm vì tội phản nghịch. Phủ của Vu Khiêm tại [[Đông Đan, Bắc Kinh|Đông Đan]] sau đó chuyển đổi thành một ngôi đền để vinh danh ông.<ref>''xem'' [http://china.org.cn/english/features/beijing/31031.htm ''Yu Qian Memorial Temple''] [http://china.org.cn/english/2003/Aug/72299.htm ''Old Beijing: Protected or Razed?''], ''và'' [http://www.jxnews.com.cn/oldnews/n1034/ca716016.htm ''北京市级文物于谦祠将坚持原址保护(图) ''] với hình ảnh ngôi đền</ref>
 
Sau khi trở lại ngôi vị hoàng đế, Chính Thống Đế cải niên hiệu thành Thiên Thuận, vì thế được gọi là Thiên Thuận Đế. Thoạt đầu, Thiên Thuận Đế thăng chức song sau lại mất tin tưởng vào các quan lại hỗ trợ ông phục vị. Vào mùa thu năm 1461, dưỡng tử của [[Tào Cát Tường]] là [[Tào Khâm]] tiến hành [[biến Tào Khâm|binh biến]] trong đội quân Minh thuộc sắc tộc Mông Cổ đồn trú ở bên ngoài Bắc Kinh.<ref name=CaoJixiang>{{zh icon}} [http://www.39cx.com/today/YW85Yw==.html 中国明朝大太监曹吉祥发动叛乱失败] Truy cập 2013-03-28</ref> Âm mưu bị bại lộ và Thiên Thuận Đế hạ lệnh đóng các cổng thành của Tử Cấm Thành và Nội Thành, giăng bẫy binh lính nổi dậy khiến họ không thể tiến vào hoàng cung và bị giết chết.<ref name=CaoJixiang>(Chinese) [http://www.39cx.com/today/YW85Yw==.html 中国明朝大太监曹吉祥发动叛乱失败] Accessed 2013-03-28</ref>
 
Năm 1550, [[Yêm Đáp Hãn]] dẫn quân [[Khách Nhĩ Khách]] Mông Cổ tiến công Bắc Kinh, cướp phá vùng ngoại ô phía bắc song không tìm cách chiếm thành. Để bảo vệ vùng ngoại ô phía nam của thành, bao gồm cả các khu phố từ thời Liêu và Kim, cũng như Thiên Đàn, triều đình Minh cho xây dựng Ngoại Thành vào năm 1553. Ngoại Thành có năm cổng, ba cổng nằm ở phía nam còn phía tây và phía đông đều có một cửa. Nội Thành và Ngoại Thành vẫn tồn tại cho đến thập niên 1960 khi chúng bị kéo đổ để xây dựng [[tàu điện ngầm Bắc Kinh]] và [[đường vành đai 2 (Bắc Kinh)|đường vành đai 2]].<ref>{{chú thích web|title=Renewal of Ming Dynasty City Wall|url=http://www.btmbeijing.com/contents/en/btm/2003-02/knowyourbeijing/ming|work=Beijing This Month|date = ngày 1 tháng 2 năm 2003-02-01 |accessdate =2008-06- ngày 14 tháng 6 năm 2008}}</ref>
 
Các đoàn truyền giáo [[Dòng Tên]] đến Bắc Kinh vào thế kỷ 16. Năm 1601, [[Matteo Ricci]] trở thành một quân sư cho triều đình của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế]] và trở thành người phương Tây đầu tiên tiếp cận Tử Cấm Thành.<ref>[http://www.china.org.cn/english/features/beijing/31024.htm "The Tomb of Matteo Ricci" ''Beijing A Guide to China's Capital City''] Truy cập 2010-10-05</ref> Ông lập nên [[Nam Đường (nhà thờ)|Nam Đường]] vào năm 1605, nhà thờ [[Ki-tô giáo|Cơ Đốc giáo]] cổ nhất tại thành phố. Các linh mục Dòng Tên khác sau đó trở thành những người quản lý [[Đài quan tượng cổ Bắc Kinh|Đài quan tượng Hoàng gia]].
Dòng 296:
Ngày 3 tháng 5 năm 1644, quân Thanh chiếm Bắc Kinh từ quân Đại Thuận của Lý Tự Thành.<ref name=QingHistory1>{{zh icn}} [http://www.btxx.cn.net/lssj/index_0601.htm 清代时期 I] Truy cập 2010-06-02</ref> Đa Nhĩ Cổn tổ chức quốc tang cho Sùng Trinh Đế và tái bổ nhiệm nhiều quan lại nhà Minh. Vào tháng 10, Đa Nhĩ Cổn rước [[Thuận Trị|Thuận Trị Đế]] từ [[Thẩm Dương]] đến Tử Cấm Thành và đặt Bắc Kinh làm thủ đô của [[nhà Thanh]]. Trong các thập niên sau đó, người Mãn Châu chinh phục phần còn lại của Trung Hoa, Bắc Kinh trở thành nơi đặt các cơ quan đầu não của triều đình Thanh trong gần ba thế kỷ.<ref name="britannica ming qing">{{cite encyclopedia|title=Beijing - History - The Ming and Qing Dynasties|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/448956/Beijing/14708/Centuries-of-growth#toc=toc14709|encyclopedia=Britannica Online Encyclopedia|year=2008}}</ref> Trong thời kỳ này, Bắc Kinh cũng được gọi là '''kinh sư''', tên [[tiếng Mãn]] tương ứng là '''Gemun Hecen'''.<ref>[[#Elliott|Elliott 2001]]: 98</ref> Dân số trong thành chỉ còn 144.000 người vào năm 1644, song tăng lên 539.000 vào năm 1647 (dân cư khu vực quanh thành tăng từ 554.000 lên 1,3 triệu).{{sfn|Han|1996|p=137}}<ref group=Note name=HistoricalCensus/>
 
Nhà Thanh duy trì phần lớn cấu trúc vật chất trong Nội Thành Bắc Kinh. Mỗi một kỳ trong [[Bát Kỳ|Mãn Châu Bát Kỳ]] được phân công bảo vệ và đóng quân gần một trong tám cổng thành của Nội Thành.<ref name=QingHistory1>(Chinese) [http://www.btxx.cn.net/lssj/index_0601.htm 清代时期 I] Accessed 2010-06-02</ref> Bên ngoài thành, triều đình Thanh chiếm đoạt các vùng đất rộng lớn để phân cho các quý tộc người Mãn.<ref name=QingHistory1>(Chinese) [http://www.btxx.cn.net/lssj/index_0601.htm 清代时期 I] Accessed 2010-06-02</ref> Ở phía tây bắc thành, các hoàng đế nhà Thanh cho xây dựng một số ngự hoa viên tráng lệ. Năm 1684, [[Khang Hy|Khang Hy Đế]] cho xây dựng [[Sướng Xuân Viên]] trên nền Thanh Hoa Viên của nhà Minh. Vào đầu thế kỷ 18, Khang Hy Đế cho xây dựng [[Viên Minh Viên]], sau đó [[Càn Long|Càn Long Đế]] cho mở rộng Viên Minh Viên theo phong cách nhà vườn [[Baroque]] Âu châu. Năm 1750, Càn Long Đế cho xây dựng [[Di Hòa Viên]]. Hai cung điện nghỉ mát này đại diện cho cả thời điểm đỉnh cao và sự suy tàn của triều đình Thanh.
 
Sự cai trị của người Mãn nâng cao vị thế phương ngữ [[Quan thoại]] của Bắc Kinh, và cuối cùng nó trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Vào đầu thời nhà Thanh, các quan lại người Hán phụng sự trong triều dược yêu cầu học [[tiếng Mãn]], song hầu hết người Mãn ruốt cuộc lại học và nói tiếng Hán.<ref name="Mandarin">{{zh icon}} [http://history.people.com.cn/GB/205396/15194538.html 明清皇帝上朝是说北京话吗? 《北京晨报》] 2011-07-19</ref> Năm 1728, do không hiểu được ngôn ngữ của các quan lại đến từ miền Nam, [[Ung Chính|Ung Chính Đế]] hạ chiếu rằng tất cả các sĩ tử tham gia thi [[khoa cử]] cần phải nói được phương ngữ Quan thoại Bắc Kinh.<ref name="Mandarin">(Chinese) [http://history.people.com.cn/GB/205396/15194538.html 明清皇帝上朝是说北京话吗? 《北京晨报》] 2011-07-19</ref><ref>{{chú thích sách |last= Kaske|first= Elisabeth|authorlink= |title= The Politics of Language in Chinese Education, 1895-1919|url=http://books.google.com/books?id=okhrBBmnHVQC&pg=PA48&dq=yongzheng+1728+dialect&hl=en&sa=X&ei=HhHMUIihGfGM0QG89YG4CQ&ved=0CDEQ6AEwAA#v=onepage&q=yongzheng%201728%20dialect&f=false|accessdate = 2012-12-ngày 16 tháng 12 năm 2012 |year=2008|publisher=BRILL|location= |isbn= 9004163670, 9789004163676|page=|pages=48–49}} & {{chú thích sách |last= Rowe|first= William T.|authorlink= |title= Saving the World: Chen Hongmou and Elite Consciousness in Eighteenth-Century China|url= http://books.google.com/books?id=VRSXz25X5P8C&pg=PA564&lpg=PA564&dq=paola+paderni+problem+of+kuan-hua&source=bl&ots=e7n_dk7yAX&sig=9JZ0rMSLPEtuawsG6xmSyg9wGbg&hl=en&sa=X&ei=IxjMULbUJs--0QHr04GIBw&ved=0CDgQ6AEwAQ#v=onepage&q=pronounciation&f=false|accessdate =2012-12- ngày 16 tháng 12 năm 2012 |year=2008|publisher=Stanford University Press|location= |isbn=0804748187, 9780804748186|page=48|pages=}}</ref> Mặc dù quy định này được bãi bỏ dưới thời [[Gia Khánh|Gia Khánh Đế]], song phương ngữ Bắc Kinh trở nên phổ biến trong giới quan lại và sau đó là trong cộng đồng dân cư.<ref name="Mandarin">(Chinese) [http://history.people.com.cn/GB/205396/15194538.html 明清皇帝上朝是说北京话吗? 《北京晨报》] 2011-07-19</ref> Một thời gian ngắn sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, vào năm 1913, [[Độc âm thống nhất hội]] quy định phương ngữ Bắc Kinh là chuẩn cấp quốc gia của [[Tiếng phổ thông Trung Quốc|Quốc ngữ]]. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc dời đô đến Nam Kinh, [[Quốc ngữ thôi hành ủy viên hội]] tái khẳng định lấy phương ngữ Bắc Kinh làm chuẩn cho Quốc ngữ vào năm 1932. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng làm điều tương tự vào năm 1955.<ref name="Mandarin">(Chinese) [http://history.people.com.cn/GB/205396/15194538.html 明清皇帝上朝是说北京话吗? 《北京晨报》] 2011-07-19</ref>
 
Nhà Thanh duy trì nguồn cung cấp lương thực tương đối ổn định cho cư dân kinh thành vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Hệ thống cống nạp ngũ cốc của chính quyền khiến hàng hóa từ các tỉnh được đưa đến kinh thành, giữ giá lương thực ổn định. Việc cung ứng lương thức đầy đủ giúp triều đình Thanh duy trì tình trạng chính trị ổn định.<ref>Lillian M. Li and Alison Dray-Novey, "Guarding Beijing's Food Security in the Qing Dynasty: State, Market, and Police." ''Journal of Asian Studies'' 1999 58(4): 992-1032. Issn: 0021-9118 Fulltext: [http://links.jstor.org/sici?sici=0021-9118(199911)58%3A4%3C992%3AGBFSIT%3E2.0.CO%3B2-6 Jstor]</ref> Các hội chùa như hội Hộ Quốc (giống như các phiên chợ hàng tháng) được tổ chức quanh các ngôi chùa, thúc đẩy nền thương mại vốn sôi động trong thành. Vào thời điểm đỉnh cao trong thời gian trị vì của Càn Long Đế, vào năm 1781, thành Bắc Kinh có 776.242 người (và 2,18 triệu người ở khu vực xung quanh).{{sfn|Han|1996|p=137}}<ref group=Note name=HistoricalCensus/> Sau đó, chính quyền bắt đầu hạn chế việc di cư vào trong thành.{{sfn|Han|1996|pp=315–19}} Một thế kỷ sau đó, kết quả điều tra dân số tiến hành vào năm 1881-82 cho thấy các con số tương tự là 776.111 và 2,45 triệu.{{sfn|Han|1996|p=137}}<ref group=Note name=HistoricalCensus/>
Dòng 306:
Hầu hết các cơ sở kinh doanh lâu đời nhất tại Bắc Kinh khởi đầu từ thời Thanh. [[Đồng Nhân Đường]] do một thái y khai trương vào năm 1669, nó trở thành nguồn cung cấp thảo dược duy nhất cho triều đình Thanh vào năm 1723. Bạch Khôi Lão Hiệu là một thực quán [[người Hồi|Hồi tộc]] phục vụ các món ăn Bắc Kinh truyền thống, mở cửa hàng đầu tiên ở gần Long Phúc tự vào năm 1780. Món vịt quay nằm trong thực đơn của các bữa ngự yến thời Nguyên, và các thực quán phục vụ món vịt quay một cách rộng rãi từ thập niên 1400. Tuy nhiên, đến khi [[Toàn Tụ Đức]] khai trương vào năm 1864 và sử dụng "lò treo", [[vịt quay Bắc Kinh]] mới trở nên nổi tiếng.
 
Năm 1813, khoảng 200 thành viên [[Bạch Liên giáo]] tiến hành tập kích Tử Cấm Thành song bị đẩy lui.<ref name=QingHistory1>(Chinese) [http://www.btxx.cn.net/lssj/index_0601.htm 清代时期 I] Accessed 2010-06-02</ref> Đáp lại, chính quyền áp đặt [[chế độ bảo giáp]] nhằm giám sát và quản lý xã hội.
 
Đoàn truyền giáo của [[George Macartney, Đệ nhất bá tước Macartney|ngài Macartney]] đến Bắc Kinh vào năm 1792, song thất bại trong việc thuyết phục Càn Long Đế giảm bớt hạn chế hoặc cho phép đặt một Đại sứ quán Anh Quốc thường trực trong thành. Tuy nhiên, Macartney nhận thấy các điểm yếu trong lòng đế chế Đại Thanh và sau đó mạnh mẽ thúc đẩy Anh Quốc thâm nhập vào Trung Hoa.
Dòng 337:
Năm 1860, trong [[Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai]], liên quân Anh-Pháp tiêu diệt quân Thanh trong [[trận Bát Lý Kiều]] ở phía đông thành Bắc Kinh. Liên quân Anh-Pháp chiếm được thành và cướp phá [[Di Hòa Viên]] cũng như [[Viên Minh Viên]]. Lãnh sự Anh Quốc ra lệnh phóng hỏa Viên Minh Viên để trả đũa việc nhà Thanh ngược đãi các tù nhân Tây phương. Tuy nhiên, lãnh sự Anh Quốc bỏ qua Tử Cấm Thành, giữ nó lại làm một địa điểm tổ chức lễ ký kết hiệp ước. Theo [[Điều ước Bắc Kinh]] kết thúc chiến tranh, triều đình Thanh buộc phải cho phép các cường quốc Tây phương thiết lập sự hiện diện ngoại giao thường trực trong thành. Các đại sứ quán ngoại quốc được đặt ở đông nam Tử Cấm Thành, tại [[Đông Giao Dân Hạng]].
 
Năm 1886, [[Từ Hy thái hậu]] hạ lệnh cho xây dựng lại [[Di Hòa Viên]] bằng kinh phí từng dự định dùng cho hải quân.<ref name=QingHistory1>(Chinese) [http://www.btxx.cn.net/lssj/index_0601.htm 清代时期 I] Accessed 2010-06-02</ref> Sau khi nhà Thanh chiến bại trước Nhật Bản trong [[Chiến tranh Thanh-Nhật]] và buộc phải ký kết [[Hiệp ước Shimonoseki|Điều ước Mã Quan]], [[Khang Hữu Vi]] tập hợp 1.300 sĩ đại phu bên ngoài [[Tuyên Vũ Môn]] để phản đối điều ước và thượng biểu cho [[Quang Tự|Quang Tự Đế]]. Vào tháng 6 năm 1898, Quang Tự Đế chấp thuận các đề xuất của Khang Hữu Vi, [[Lương Khải Siêu]] và các sĩ đại phu khác và cho tiến hành [[Bách Nhật Duy Tân]]. Cuộc cải cách này khiến Từ Hi thái hậu lo sợ, và với sự giúp đỡ của ngoại thích [[Vinh Lộc]] và chỉ huy [[quân Bắc Dương|Bắc Dương quân]] là [[Viên Thế Khải]], Thái hậu tiến hành chính biến. Quang Tự Đế bị bắt giam, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phải chạy trốn ra ngoại quốc, còn [[Đàm Tự Đồng]] và [[Mậu Tuất lục quốc tử|ngũ vị quân tử khác]] bị xử trảm thị chúng tại Thái Thị Khẩu bên ngoài Tuyên Vũ Môn. Một di sản của thời gian duy tân ngắn ngủi là việc thành lập [[Đại học Bắc Kinh]] vào năm 1898.
 
Năm 1898, một nhóm [[thiên hi niên chủ nghĩa]] gọi là [[phong trào Nghĩa Hòa Đoàn]] nổi dậy tại [[Sơn Đông]] với mục đích chống lại chủ nghĩa đế quốc Tây phương xâm nhập Trung Quốc.<ref>[[#Li, Dray-Novey & Kong|Li, Dray-Novey & Kong 2007]]: 119–120</ref> Họ tấn công người Tây phương, đặc biệt là những nhà truyền giáo và những người Trung Quốc cải sang Cơ Đốc giáo. Triều đình Thanh thoạt đầu trấn áp Nghĩa Hòa Đoàn song Từ Hy thái hậu cố gắng dùng họ để ngăn chặn ảnh hưởng của ngoại bang và cho phép họ tập trung tại Bắc Kinh. Vào tháng 6 năm 1900, Nghĩa Hòa Đoàn cố xông vào khu Đông Giao Dân Hạng, lúc đó là nơi trú ẩn của vài trăm thường dân ngoại quốc và khoảng 3.200 tín hữu Cơ Đốc Trung Hoa. Một đội quân quốc tế [[Liên quân tám nước|gồm tám nước]] cuối cùng [[trận Bắc Kinh (1900)|đánh bại]] Nghĩa Hòa Đoàn và quân Thanh, giải vây cho khu vực các sứ quán. Các đội quân ngoại quốc cướp phá thành Bắc Kinh và chiếm đóng miền Bắc Trung Quốc. Từ Hi thái hậu chạy đến [[Tây An]] và chỉ trở về Bắc Kinh sau khi triều đình Thanh ký kết [[Điều ước Tân Sửu]] mà theo đó Trung Quốc phải trả bồi thường chiến phí 450 triệu [[lạng]] với lãi suất 4 phần trăm. Gánh nặng bồi thường chiến phí khiến triều đình Thanh phải gia tăng thu thuế và khiến quốc lực tiếp tục suy yếu.<ref>Diana Preston, "The Boxer Rising." ''Asian Affairs'' 2000 31(1): 26-36. Issn: 0306-8374 Fulltext: [[Ebsco]]</ref>
Dòng 346:
Cũng trong năm 1905, Hộ bộ và các nhà đầu tư tư nhân thành lập Ngân hàng Hộ bộ, ngân hàng trung ương đầu tiên của Trung Quốc và cũng là ngân hàng "hiện đại" lớn nhất đương thời<ref>[[#Sheehan|Sheehan 2002]]: 52</ref> Ngân hàng này được đổi tên thành [[Ngân hàng Trung Quốc]] sau Cách mạng Tân Hợi và bắt đầu biến Bắc Kinh trở thành trung tâm của các ngân hàng quốc gia tại Trung Quốc. Các ngân hàng ngoại quốc lớn như [[HSBC]], [[Citibank]], [[Deutsch-Asiatische Bank]] và [[Ngân hàng Chính kim Yokohama]] mở chi nhánh tại Đông Giao Dân Hạng.
 
Tuyến đường sắt thương mại đầu tiên qua địa phận Bắc Kinh là tuyến Thiên Tân-Lư Câu Kiều, được xây dựng từ năm 1895 đến 1897 bằng vốn của Anh Quốc.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref>. Ga cuối của tuyến đường sắt được kéo dài hơn về phía trung tâm thành phố, tới Phong Đài và sau là tới Mã Gia Bảo, nay bên ngoài [[Vĩnh Định Môn]], một cổng thành của Ngoại Thành.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref> Triều đình Thanh chống lại việc kéo dài tuyến đường sắt vào trong tường thành.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref> Để đảm bảo Từ Hy thái hậu sẽ ủng hộ việc xây dựng đường sắt, Tổng đốc Trực Lệ [[Lý Hồng Chương]] nhập khẩu một xe lửa nhỏ từ [[Đế quốc Đức|Đức]] và cho xây dựng một tuyến đường sắt khổ hẹp từ cung của bà tại Trung Nam Hải đến thực đường của bà tại Bắc Hải.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref> Từ Hy thái hậu lo ngại rằng tiếng ồn của đầu máy xe lửa sẽ ảnh hưởng đến phong thủy của hoàng cung, vì thế yêu cầu các thái giám kéo xe lửa thay vì dùng động cơ hơi nước.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref>
 
Các cường quốc từng chiếm đóng thành phố trong khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn kéo dài tuyến đường sắt vào trong tường Ngoại Thành ở Vĩnh Định Môn vào năm 1900 và sau đó kéo dài về phía bắc đến Chính Dương Môn (Tiền Môn) ở ngay ngoài tường Nội Thành vào năm 1903.<ref name="Dong2002p35">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 35</ref> Họ xây dựng một đoạn đường sắt nhánh về phía đông đến [[Thông Châu]] để tiến hành vận chuyển ngũ cốc từ Đại Vận Hà. Đoạn đường sắt này xây dựng từ năm 1896 đến 1905, và được đổi tên thành [[đường sắt Kinh-Hán]] sau khi tiến đến Tiền Môn từ phía tây.<ref name="Dong2002p36">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 36</ref> Việc xây dựng tuyến đường sắt khiến một phần tường thành ở Tuyên Vũ Môn bị phá hủy. Tuyến đường sắt Bắc Kinh-Phụng Thiên vào năm 1907 cũng khiến một đoạn tường thành ở [[Sùng Văn Môn]] bị phá.<ref name="Dong2002p36">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 36</ref> Tuyến đường sắt đầu tiên tại Trung Quốc được xây dựng mà không cần viện trợ của ngoại quốc là tuyến đường sắt Bắc Kinh-Trương Gia Khẩu, do [[Chiêm Thiên Hựu]] thiết kế và được xây dựng từ năm 1905 đến năm 1909 và điểm cuối của nó nằm ngay bên ngoài Tây Trực Môn.<ref name="Dong2002p36">[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 36</ref> Những năm cuối thời Thanh, Bắc Kinh có các tuyến đường sắt kết nối đến [[Hán Khẩu]] ([[Vũ Hán]]), [[Phổ Khẩu]] (Nam Kinh]], Phụng Thiên (Thẩm Dương) và [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]], và là một đầu mối đường sắt lớn tại miền Bắc Trung Quốc.
 
== Thời Trung Hoa Dân Quốc ==
Dòng 358:
Khi [[khởi nghĩa Vũ Xương]] nổ ra vào tháng 10 năm 1911, triều đình Thanh phái Viên Thế Khải và [[quân Bắc Dương]] của ông đi trấn áp cuộc nổi dậy. Trong lúc [[trận Dương Hạ|chiến đấu]] với những người cách mạng ở phía nam, Viên Thế Khải đồng thời cũng đàm phán với họ. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1912, [[Tôn Trung Sơn]] thành lập [[Trung Hoa Dân Quốc]] tại Nam Kinh và được bầu làm [[Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc|đại tổng thống lâm thời]]. [[Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc (Nam Kinh)|Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc]] không được cường quốc nào công nhận, và Tôn Trung Sơn chấp thuận nhường vị trí lãnh đạo cho Viên Thế Khải để đổi lấy hỗ trợ trong việc chấm dứt triều Thanh. Ngày 12 tháng 2, Viên Thế Khải buộc triều đình Thanh đang dưới quyền cai quản của nhiếp chính vương [[Tải Phong]] phải từ bỏ địa vị thống trị. [[Hiếu Định Cảnh hoàng hậu|Long Dụ thái hậu]] ra chiếu thoái vị thay mặt [[Phổ Nghi|Tuyên Thống Đế]] Phổ Nghi mới năm tuổi. Ngày hôm sau, Tôn Trung Sơn từ chức đại tổng thống lâm thời và tiến cử Viên Thế Khải vào vị trí này. Theo các điều khoản thoái vị, Phổ Nghi vẫn được giữ các tước hiệu và nhận được một khoản trợ cấp từ Dân Quốc. Phổ Nghi được phép tiếp tục ở trong Tử Cấm Thành một thời gian, song sau đó bị yêu cầu chuyển đến Di Hòa Viên.
 
Tôn Trung Sơn kiên quyết yêu cầu rằng chính phủ lâm thời đặt ở Nam Kinh. Ngày 14 tháng 2, Hội nghị Nghị viên lâm thời bỏ phiếu lần đầu về vấn đề thủ đô, Bắc Kinh nhận được 20 phiếu trong khi Nam Kinh nhận được 5 phiếu, Vũ Xương được 2 phiếu và Thiên Tân được 1 phiếu.<ref name="Xinhai.org p.1">{{zh icon}} [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p.1] 2010-12-08</ref> Phần lớn đại biểu Nghị viện muốn đảm bảo hòa bình bằng việc để trung tâm quyền lực tại Bắc Kinh.<ref name="Xinhai.org p.1">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p.1] 2010-12-08</ref> [[Trương Kiển]] và những người khác biện luận rằng đặt thủ đô ở Bắc Kinh cũng sẽ có thể ngăn ngừa Mãn Châu phục hưng và [[Ngoại Mông (1911–1919)|Mông Cổ ly khai]]. Song Tôn Trung Sơn và [[Hoàng Hưng]] thì ủng hộ Nam Kinh nhằm cân bằng với căn cứ quyền lực của Viên Thế Khải ở phía Bắc.<ref name="Xinhai.org p.1">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p.1] 2010-12-08</ref> Ngày hôm sau, Hội nghị Nghị viện Lâm thời bỏ phiếu lại, lần này Nam Kinh được 19 phiếu còn Bắc Kinh được 6 phiếu, Vũ Hán được 2 phiếu.<ref name="Xinhai.org p.1">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p.1] 2010-12-08</ref> Tôn Trung Sơn cử một phái đoàn do [[Thái Nguyên Bồi]] và [[Uông Tinh Vệ]] đi thuyết phục Viên Thế Khải chuyển đến Nam Kinh.<ref name="Xinhai.org p.3">{{zh icon}} [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_3.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 3] 2010-12-08</ref> Viên Thế Khải nghênh tiếp phái đoàn và đồng ý đi cùng với các đại biểu về phía nam.<ref name="Xinhai.org p.4">{{zh icon}} [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_4.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 4] 2010-12-08</ref> Vào đêm ngày 29 tháng 2, các vụ bạo động và phóng hỏa xảy ra trên khắp Bắc Kinh.<ref name="Xinhai.org p.4">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_4.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 4] 2010-12-08</ref> Đội quân bất phục tùng của [[Tào Côn]] (một sĩ quan trung thành với Viên Thế Khải) được quy trách nhiệm khởi đầu sự việc.<ref name="Xinhai.org p.4">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_4.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 4] 2010-12-08</ref> Rối loạn trong hàng ngũ quân đội lan đến Thông Châu, Thiên Tân và Bảo Định.<ref name="Xinhai.org p.4">(Chinese) [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_4.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 4] 2010-12-08</ref> Viên Thế Khải lấy các sự kiện này làm lý do để ở lại miền Bắc nhằm chỉ đạo chống lại tình trạng bất ổn. Vào ngày 10 tháng 3, Viên Thế Khải làm lễ tấn phong chức Đại tổng thống lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc tại Bắc Kinh.<ref name="Xinhai.org p.2">{{zh icon}} [http://www.xinhai.org/yanjiu/191101189_3.htm 胡绳武 "民国元年定都之争" ''民国档案'' p. 2] 2010-12-08</ref> Viên Thế Khải đặt văn phòng điều hành và dinh thự tại [[Trung Nam Hải]], cạnh Tử Cấm Thành. Ngày 5 tháng 4, Nghị viện Lâm thời tại Nam Kinh bỏ phiếu bỏ phiếu chọn Bắc Kinh làm thủ đô của Dân Quốc và tụ họp tại Bắc Kinh vào cuối tháng đó.
 
Vào tháng 8, Tôn Trung Sơn đến Bắc Kinh, ông được [[Viên Thế Khải]] và một đám đông hàng nghìn người chào đón.<ref>[[#Strand 2002|Strand 2002]]: 58-59</ref> Tại [[Hồ Quảng hội quán]], [[Đồng Minh hội]] do Tôn Trung Sơn, Hoàng Hưng và [[Tống Giáo Nhân]] lãnh đạo hợp với một số chính đảng nhỏ hơn để thành lập [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc Dân đảng]].<ref>[[#Strand 2002|Strand 2002]]: 58</ref> Cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức lần đầu tiên từ tháng 12 năm 1912 đến tháng 1 năm 1913, nam giới trên 21 tuổi được tiếp nhận giáo dục hay có tài sản đủ lớn, trả thuế, và có thể chứng minh cư trú hai năm ở một huyện có thể bỏ phiếu.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 222-223</ref> Một ước tính cho thấy 4-6% dân số Trung Quốc đăng ký tham gia bỏ phiếu.<ref name="CHC222">[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 222</ref> Quốc Dân đảng giành chiến thắng trong cả hai viện của Quốc hội, Quốc hội được triệu tập tại Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1913.<ref name="CHC222">[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 222</ref>
 
Khi Quốc hội phê chuẩn hiến pháp, [[Viên Thế Khải]] chống lại các nỗ lực nhằm chia sẻ quyền lực. Không thông báo cho Quốc gội, [[Viên Thế Khải]] dàn xếp vay một khoản tiền lớn của ngoại quốc để dùng cho đội quân của mình. Khoản vay được ký kết tại Ngân hàng HSBC ở Đông Giao Dân Hạng, quyền thu thuế muối nằm trong tay ngoại quốc.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 207, 211, 246</ref> Các đặc vụ của Viên Thế Khải ám sát lãnh tụ Quốc Dân đảng là Tống Giáo Nhân ở Thượng Hải.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 224</ref> Đáp lại, Tôn Trung Sơn tiến hành [[Cách mạng Lần hai]] vào tháng 7 năm 1913, tuy nhiên Quốc Dân đảng thất bại và Tông Trung Sơn phải đi lưu vong. Sau đó, [[Viên Thế Khải]] buộc Quốc hội phải bầu ông làm Đại tổng thống và trục xuất các thành viên của Quốc Dân đảng. Vào đầu năm 1914, Viên Thế Khải giải tán Quốc hội và đến tháng 5 thì bãi bỏ Hiến pháp lâm thời.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 242</ref> Ngày 23 tháng 12 năm 1915, Viên Thế Khải xưng đế, tức Hồng Hiến Đế, và chế độ của ông được gọi là [[Đế quốc Trung Hoa (1915-1916)|Đế quốc Trung Hoa]]. Việc [[Viên Thế Khải]] xưng đế châm ngòi cho [[Chiến tranh hộ quốc]] khi các tỉnh phía nam nổi dậy. [[Viên Thế Khải]] buộc phải trở lại làm tổng thống vào tháng 3 năm 1916. [[Viên Thế Khải]] qua đời tại Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1916, những sĩ quan xuất thân từ quân Bắc Dương cạnh tranh nhau quyền kiểm soát chính phủ. Trong 12 năm tiếp theo, [[chính phủ Bắc Dương]] đặt tại Bắc Kinh có không ít hơn 18 tổng thống, 5 quốc hội, 24 nội các, ít nhất 4 hiến pháp và sự kiện [[Trương Huân phục tịch|phục hồi nền quân chủ Mãn Thanh]] tồn tại hơn 10 ngày vào tháng 7 năm 1917.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 307-308</ref>
Dòng 376:
[[Tập tin:NRA Generals Northern Expedition.jpg|nhỏ|phải|Sau khi đoạt được Bắc Kinh trong [[Bắc phạt]], các lãnh tụ Quốc Dân đảng do [[Tưởng Giới Thạch]] đứng đầu tập hợp tại [[Bích Vân tự]] vào ngày 6 tháng 7 năm 1928, mục đích là để tỏ lòng tôn kính Tôn Trung Sơn]]
 
Vào thập niên 1920, quân Bắc Dương vốn hùng mạnh bị phân chia thành các bè phái và tranh giành quyền kiểm soát chính phủ Quốc dân cũng như thủ đô. Do suy yếu sau [[phong trào Ngũ Tứ]] năm 1919, vào tháng 7 năm 1920, chính phủ của [[Đoàn Kỳ Thụy]] bị [[Trực hệ]] của [[Ngô Bội Phu]] và [[Tào Côn]] đẩy ra khỏi Bắc Kinh trong [[chiến tranh Trực-Hoàn]]. Hai năm sau, Trực hệ phải giao chiến với [[Phụng hệ]] ở [[Mãn Châu]] do [[Trương Tác Lâm]] lãnh đạo trong [[Chiến tranh Trực-Phụng lần thứ nhất]]. Khi hai bên lại giao chiến trong [[Chiến tranh Trực-Phụng lần thứ hai]] vào năm 1924, một sĩ quan của Ngô Bội Phu là [[Phùng Ngọc Tường]] phát động [[Chính biến Bắc Kinh]]. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1924, Phùng Ngọc Tường chiếm được thủ đô, giam cầm đại tổng thống Tào Côn, phục vị nguyên thủ quốc gia cho Đoàn Kỳ Thụy và mời Tôn Trung Sơn đến Bắc Kinh để hòa đàm. Khi đó, Tôn Trung Sơn đang xây dựng một chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu với sự trợ giúp của [[Đệ tam Quốc tế]] và sự ủng hộ của [[Đảng Cộng sản Trung Quốc|Trung Quốc Cộng sản đảng]]. Tôn Trung Sơn bị bệnh ung thư khi ông đến Bắc Kinh vào đầu năm 1925 trong nỗ lực cuối cùng của ông nhằm hòa giải đối địch bắc-nam. Ông được hàng trăm tổ chức dân sự chào đón, và kêu gọi xây dựng một chính phủ thống nhất. Tôn Trung Sơn qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 12 tháng 3 năm 1925, được an táng tại [[Bích Vân tự]].
 
Trương Tác Lâm và Ngô Bội Phu hợp binh chống lại Phùng Ngọc Tường (là người dựa vào sự ủng hộ của [[Liên Xô]]). Phùng Ngọc Tường có lập trường thân Quốc Dân đảng và Cộng sản đảng, cũng là các lực lượng có ảnh hưởng tại thành phố. Trong thời kỳ này, Bắc Kinh là nơi các hoạt động sinh viên phát triển mạnh. Trong [[Phong trào Ngũ Tạp]] vào năm 1925, có 12.000 sinh viên từ 90 trường học diễu hành qua [[Vương Phủ Tỉnh]] đến Thiên An Môn để ủng hộ những người kháng nghị tại Thượng Hải.<ref name="Strand 182">[[#Strand 1993|Strand 1993]]: 182</ref> Với việc mở các trường học tư như [[Đại học Yên Kinh]] vào năm 1919 và [[Đại học Công giáo Phụ Nhân|Đại học Phụ Nhân]] vào năm 1925, số lượng sinh viên tại Bắc Kinh gia tăng đáng kể vào đầu thập niên 1920.<ref name="Strand 182">[[#Strand 1993|Strand 1993]]: 182</ref> Các học sinh trung học cũng tham gia vào các hoạt động kháng nghị.<ref name="Strand 182">[[#Strand 1993|Strand 1993]]: 182</ref> Vào tháng 10, các sinh viên kháng nghị chủ nghĩa đế quốc trong một hội nghị quốc tế về hải quan và thuế quan được tổ chức tại thành phố.<ref name="Strand 192">[[#Strand 1993|Strand 1993]]: 192</ref> Vào tháng 11, [[Lý Đại Chiêu]] tổ chức một cuộc biểu tình gồm sinh viên và công nhân để yêu cầu Đoàn Kỳ Thụy từ chức. Cuộc biểu tình biến thành bạo lực, những người biểu tình đốt cháy các tòa soạn báo lớn, và bị giải tán.<ref>Zheng Yuan, "The Capital Revolution: a Case Study of Chinese Student Movements in the 1920s." ''Journal of Asian History'' 2004 38(1): 1-26. Issn: 0021-910x</ref>
 
Mặc dù Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn liên minh với những người cộng sản trong cuộc đấu tranh với các quân phiệt, song liên mình không tránh khỏi căng thẳng. Vào tháng 11 năm 1925, một nhóm hữu khuynh trong hàng ngũ lãnh đạo Quốc Dân đảng hội đàm tại Tây Sơn Bắc Kinh và kêu gọi trục xuất những người cộng sản ra khỏi Quốc Dân đảng và cắt đứt các quan hệ với Đệ tam quốc tế, bao gồm cả cố vấn [[Mikhail Borodin]].<ref name="Strand 192"/><ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 558</ref> Trung ương đảng của Quốc Dân đảng tại Quảng Châu do [[Tưởng Giới Thạch]], Uông Tinh Vệ và [[Hồ Hán Dân]] lãnh đạo phản đối kịch liệt bản tuyên ngôn này, và các thành viên của "nhóm Tây Sơn" bị trục xuất khỏi đảng hoặc bị bãi nhiệm các chức vụ lãnh đạo đảng.<ref>[[#Cambridge History Vol 12 Part 1|Cambridge History of China, Vol 12, Part 1]]: 558-559</ref>
Dòng 403:
| width2 = 180
| caption2 = }}
Sau khi [[Sự kiện Phụng Thiên|Nhật Bản chiếm Đông Bắc]] năm 1931, Bắc Bình bị đe dọa từ sự xâm lấm của người Nhật. [[Hiệp định Đường Cơ]] vào năm 1933 trao quyền kiểm soát Trường Thành cho Nhật Bản, và một khu phi quân sự 100-km phía nam Trường Thành được lập ra, tước đoạt khả năng phòng thủ phía bắc của Bắc Kinh. [[Hiệp định Hà Khâm-Umezu]] bí mật được ký kết vào tháng 5 năm 1935, theo đó yêu cầu chính phủ Trung Quốc triệt thoái các đơn vị [[Quốc dân Cách mạng quân|Quốc quân]] khỏi tỉnh Hà Bắc và ngăn chặn các hoạt động chống Nhật của quần chúng Trung Quốc.<ref>[[#Dryburgh|Dryburgh 2000]]: 149</ref> [[Hiệp định Tần Đức Thuần-Doihara]] vào tháng 6 năm 1935 buộc quân đoàn 29, một đơn vị cũ của ''[[Quốc Dân quân]]'', phải di chuyển từ [[Sát Cáp Nhĩ (tỉnh)|tỉnh Sát Cáp Nhĩ]] đến khu vực phía nam Bắc Bình, gần Nam Uyển.<ref>[[#Dryburgh|Dryburgh 2000]]: 44</ref> Vào tháng 11 năm 1935, người Nhật dựng lên một chính phủ bù nhìn đặt tại [[Thông Châu]] gọi là [[Chính phủ Tự trị Phòng cộng Kí Đông]], tuyên bố độc lập với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và kiểm soát 22 huyện phía đông Bắc Bình, bao gồm Thông Châu và Bình Cốc thuộc địa giới Bắc Kinh hiện nay.
 
Trước tình thế ngày càng căng thẳng, bộ sưu tập nghệ thuật của Bảo tàng Cố cung Quốc lập được di dời đến Nam Kinh vào ngày 1934 và nơi trú ẩn phòng không được xây dựng tại Trung Nam Hải.<ref>[[#Dong 2002|Dong 2002]]: 122, 124</ref> Dòng người tị nạn từ Đông Bắc và sự hiện diện của các trường đại học biến Bắc Bình trở thành một lò lửa của tình cảm chống Nhật. Ngày 9 tháng 12 năm 1935, các sinh viên tại Bắc Bình phát động [[phong trào Nhất Nhị Cửu]] để phản đối [[Uỷ ban Chính vụ Kí-Sát]] (một chính phủ bù nhìn khác) và kêu gọi vệ quốc.
 
Vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, quân đoàn 29 của Trung Quốc và [[Chi Na trú đồn quân]] của Nhật Bản đọ súng tại [[cầu Lư Câu|Lư Câu Kiều]] gần [[Uyển Bình thành]] ở tây nam Bắc Bình. [[Sự kiện Lư Câu Kiều]] gây ra [[Chiến tranh Trung-Nhật]]. Đến cuối tháng 7, quân tiếp viện của Nhật Bản với sự hỗ trợ của không quân [[tác chiến Bình-Tân|tiến công toàn diện]] vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Trong khi giao chiến ở phía nam Bắc Bình, phó chỉ huy trưởng quân đoàn 29 là [[Đông Lân Các]] và sư đoàn trưởng [[Triệu Đăng Vũ]] đều tử chiến. Họ cùng với [[Trương Tự Trung]], một sư đoàn trưởng khác của quân đoàn 29 là ba nhân vật hiện đại duy nhất được dùng tên để đặt cho các tuyến phố tại Bắc Kinh ngày nay. Tại Thông Châu, lực lượng dân quân của Chính phủ Tự trị Phòng cộng Kí Đông từ chối hợp binh với người Nhật để tiến công quân đoàn 29, và còn tiến hành [[sự kiện Thông Châu|nổi dậy]] chống Nhật, song các lực lượng Trung Quốc phải triệt thoái về phía nam.<ref name="columbia encyclopedia">{{cite encyclopedia|title=Beijing|url=http://www.bartleby.com/65/be/Beijing.html|encyclopedia=[[The Columbia Encyclopedia]]|edition=6th|year=2007}}</ref><ref>{{chú thích báo|title=Incident on ngày 7 tháng 7 năm 1937|url=http://news.xinhuanet.com/english/2005-06/27/content_3141055.htm|agency=Xinhua News Agency|date =2005-06- ngày 27 tháng 6 năm 2005 |accessdate =2008-06- ngày 20 tháng 6 năm 2008}}</ref> Tuy nhiên, Bắc Bình không phải chịu cảnh giao chiến trong đô thị và không bị phá hủy nhiều như các thành phố khác tại Trung Quốc.
 
Người Nhật lập ra một chế độ bù nhìn khác là [[Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc (1937-1940)|Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc]], để quản lý vùng lãnh thổ chiếm được ở miền Bắc Trung Quốc, đổi tên Bắc Bình thành Bắc Kinh và lập làm thủ đô.<ref name="Li, Dray-Novey & Kong 166">[[#Li, Dray-Novey & Kong|Li, Dray-Novey & Kong 2007]]: 166</ref> Chính phủ này sau đó hợp nhất với [[Chính phủ Uông Tinh Vệ|chính phủ]] của [[Uông Tinh Vệ]] đặt tại Nam Kinh, song quyền kiểm soát thực tế nằm trong tay quân đội Nhật Bản.<ref name="Li, Dray-Novey & Kong 166"/> Trong chiến tranh, Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa được sơ tán đến các khu vực không bị chiếm đóng và thành lập nên [[Đại học Liên hiệp Quốc lập Tây Nam]]. Đại học Phụ Nhân được [[Tòa thánh Vatican]] (trung lập) bảo hộ. Sau khi bùng nổ [[Chiến tranh Thái Bình Dương]] với việc Nhật Bản [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]] vào tháng 12 năm 1941, quân Nhật đóng cửa Đại học Yên Kinh và giam cầm các nhân viên người Mỹ của đại học này. Một số người được du kích cộng sản ở những vùng nông thôn xa xôi cứu giúp. Thôn Tiêu Trang Hộ ở Thuận Nghĩa vẫn còn giữ lại một mê cung gồm các đường hầm dưới lòng đất với các sở chỉ huy, phòng họp và lối đi ngụy trang từ thời chiến tranh.<ref>[http://www.oldbeijing.net/Article/Class1/Class22/9606.html "Memorial Museum of Tunnel Warfare Sites at Jiaozhuanghu Village" ''OldBeijing.net''] Truy cập 23 tháng 8 năm 2011</ref>
Dòng 452:
Với việc chính phủ mới bãi bỏ các điều ước bất bình đẳng, các cường quốc bị tước bỏ đặc quyền dành cho đơn vị lính đồn trú và sứ quán ở Đông Giao Dân Hạng. Hoa Kỳ, Pháp và Hà Lan từ chối công nhận chính phủ mới nên họ bị buộc phải từ bỏ văn phòng lãnh sự và quân sự vào năm 1950.{{sfn|Hoare|1999|loc =70}} Liên Xô đàm phán để chuyển đến một đại sứ quán mới ở góc đông bắc thành cổ.{{sfn|Hoare|1999|loc =70}} Anh Quốc công nhận chính phủ mới, họ nằm trong số các quốc gia cuối cùng dời khỏi Đông Giao Dân Hạng vào năm 1954.{{sfn|Hoare|1999|loc =71}} Một khu vực sứ quán mới xuất hiện ở phía đông của tường thành, tại [[Tam Lý Đồn]], nơi các nước thuộc [[Khối phía Đông|khối Cộng sản]] và [[Thế giới thứ ba]] thiết lập cơ quan đại diện ngoại giao của mình.
 
Là trung tâm quyền lực của nước Cộng hòa, Bắc Kinh được chuyển đổi để phản ánh những ý tưởng của nhà nước cộng sản. Tại một cuộc họp nhằm lập kế hoạch vào tháng 11 năm 1949, dưới sự chủ trì của thị trưởng [[Nhiếp Vinh Trăn]], kiến trúc sư nổi tiếng [[Lương Tư Thành]] đề xuất bảo tồn nguyên vẹn khu thành cổ bằng cách xây dựng một khu đô thị và trung tâm chính quyền mới ở Ngũ Khỏa Tùng, Tam Lý Hà và Điếu Ngư Đài cách Thiên An Môn {{convert|10|km|abbr=on}} về phía tây.<ref>[[#WangJun|Wang Jun 2010]]: 104, 143</ref> Các cố vấn Liên Xô phản đối đề xuất này, họ cho rằng nên tập trung các tòa nhà chính phủ mới trong vùng lõi đô thị cũ, đặc biệt là xung quanh quảng trường Thiên An Môn.<ref name="Wang Jun 2010: 104">[[#WangJun|Wang Jun 2010]]: 104</ref> Việc xây dựng các tòa nhà trong vùng lõi đô thị sẽ cho phép các nhân viên chính phủ sinh sống trong các khu phố hiện có và việc xây thêm các khu dân cư mới để phục vụ cho một trung tâm chính phủ mới tại vùng ngoại ô bị xem là không kinh tế.<ref>[[#WangJun|Wang Jun 2010]]: 105-108, 110</ref> Các cố vấn Liên Xô cũng kêu gọi công nghiệp hóa, lưu ý rằng công nhân chỉ chiếm 4% dân cư địa phương, trong khi thủ đô của một chính quyền cộng sản cần phải có một tầng lớp vô sản mạnh.<ref name="Wang Jun 2010: 104">[[#WangJun|Wang Jun 2010]]: 104</ref> Các đề xuất của Liên Xô chiếm ưu thế, định hướng cho quy hoạch đô thị của Bắc Kinh trong thập niên sau đó.
 
[[Quảng trường Thiên An Môn]] được mở rộng để có thể đủ không gian cho các cuộc tập hợp và diễu hành công chúng quy mô lớn. [[Mười công trình lớn của Bắc Kinh|Các tòa nhà và đài kỷ niệm]] mang tính biểu tượng, chịu ảnh hưởng của phong cách [[chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa]] từ Liên Xô, bao gồm [[Bia Kỉ niệm Anh hùng Nhân dân]], [[Đại lễ đường Nhân dân]], và [[Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc]], được hoàn thành vào năm 1959, nhân dịp mười năm quốc khánh. Nhiều khu phố trong thành cổ bị san bằng để nhường chỗ cho các nhà máy, văn phòng chính phủ và các tòa nhà chung cư. Nhiều cung điện và hoa viên được cải tạo thành nhà ở, trường học và văn phòng. Các cơ sở công nghiệp lớn được xây dựng tại các vùng ngoại ô phía tây và phía đông. Lãnh đạo quốc gia cư trú tại [[Trung Nam Hải]], ở phía tây của [[Cố Cung (Bắc Kinh)|Tử Cấm Thành]]. Tường thành Bắc Kinh rơi vào cảnh không được tu sửa, và sau đó bị phá bỏ trong thập niên 1960 để xây dựng [[tàu điện ngầm Bắc Kinh]] và [[đường vành đai 2 (Bắc Kinh)|đường vành đai 2]].<ref>[[#Li, Dray-Novey & Kong|Li, Dray-Novey & Kong 2007]]: 217</ref>
Dòng 460:
Thành phố trở thành nơi tập trung nhiều nhất các cơ sở giáo dục bậc cao và nghiên cứu hàn lâm tại Trung Quốc. Số trường đại học tại Bắc Kinh tăng lên với việc di chuyển các học viện từ khu vực du kích đến như [[Đại học Nhân dân]], [[Đại học Công nghệ Bắc Kinh]], [[Trường Trung ương đảng Trung cộng]], [[Đại học Dân tộc Trung Ương]], và [[Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh]], việc mở ra các học viện và viện nghiên cứu quốc gia thuộc các bộ khác nhau. Tuy nhiên, các trường đại học do ngoại quốc tài trợ bị đóng cửa hoặc chuyển thành trường công, đại học Yên Kinh được sáp nhập với đại học Bắc Kinh và chuyển đến khu ngoại ô ở tây bắc, đại học Phụ Nhân trở thành [[Đại học Sư phạm Bắc Kinh]].
 
Từ năm 1949 đến năm 1958, thành phố dần nhận thêm nhiều lãnh thổ từ tỉnh Hà Bắc.<ref name="Territory">(Chinese) [http://www.da.dl.gov.cn/MainPageServlet?ctrl=xxxxPublic&id=4963 建国初期北京市界的四次调整 in 《中国档案报•档案大观》 5th Ed.] 2007-03-16</ref> Việc mở rộng đáng kể cuối cùng diễn ra vào năm 1958 với việc sáp nhập 9 huyện: Thông huyện (nay là Thông Châu), Thuận Nghĩa, Đại Hưng, Lương Hương (nay thuộc Phòng Sơn), Phòng Sơn, Bình Cố, Mật Vân, Hoài Nhu và Diên Khánh với tổng diện tích {{convert|11988|km2|abbr=on}}, tổng diện tích Bắc Kinh tăng lên {{convert|16800|km2|abbr=on}}.<ref name="Territory">(Chinese) [http://www.da.dl.gov.cn/MainPageServlet?ctrl=xxxxPublic&id=4963 建国初期北京市界的四次调整 in 《中国档案报•档案大观》 5th Ed.] 2007-03-16</ref> Năm 1958, dân số toàn thành phố là 6.318.497 người, trong đó 31,5% sinh sống trong tường thành, 29% sinh sống tại vùng ngoại thành lân cận và các cư dân còn lại sống tại các thị trấn xa trung tâm và khu vực nông thôn.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Các nhà quy hoạch lập mục tiêu biến Bắc Kinh thành thành phố 10 triệu dân.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref>
 
=== Đại nhảy vọt ===
Dòng 473:
| caption2 =
|footer = The [[Bia kỉ niệm An hùng Nhân dân]] được xây dựng trên [[quảng trường Thiên An Môn]] vào năm 1958..}}
Vào tháng 1 năm 1958, Mao Trạch Đông khởi động kế hoạch 5 năm bằng một chiến dịch đầy tham vọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. [[Đại nhảy vọt]] (''Đại dược tiến'') có mục tiêu là khắc phục tình trạng thiếu vốn của Trung Quốc thông qua huy động quần chúng, sử dụng các nông trại tập thể quy mô lớn để tăng sản lượng nông nghiệp và lương thực dư ra được phát miễn phí cho các lao động trong lĩnh vực công nghiệp. Tại vùng đô thị Bắc Kinh, cũng như các thành phố khác, các tòa nhà ở mới được xây dựng mà không có nhà bếp. Thay vào đó, các cư dân ăn tối trong phòng ăn tập thể, được phục vụ miễn phí. Các cư dân được huy động sản xuất thép tại gia, sử dụng các tài sản cá nhân bằng kim loại (như chậu và dao kéo, được cho là không cần thiết do có nhà ăn tập thể).<ref name="Jinshiye1">(Chinese) [http://xzj.2000y.com/mb/1/readnews.asp?newsid=202860 记忆中的大跃进(一)大炼钢铁] 2004-12-06</ref> Tường thành cũng bị phá hủy để lấy vật liệu xây lò nung. Thép thỏi phẩm cấp thấp được sản xuất từ các lò này không thích hợp khi sử dụng trong công nghiệp. Chính sách thất bại hoàn toàn, và việc phân bổ sai các nguồn tài nguyên ngăn cản các kế hoạch xây dựng lại thành phố trong nhiều năm.
 
Vào đầu chiến dịch diễn ra [[chiến dịch diệt chim sẻ|phong trào diệt bốn loài gây hại]], bao gồm chim sẻ do được cho là gây hại do ăn ngũ cốc.<ref>{{zh icon}} [http://www.thjunshi.com/jmda/2012/9/12/12129_4.shtml 中国"痛剿麻雀"旷古奇观] 2012-09-12</ref> Vào đỉnh điểm của phong trào, vào tháng 4 năm 1958, trên ba triệu cư dân Bắc Kinh sử dụng pháo, cồng, đánh vào chậu hay chai lọ để phát thành tiếng, dùng cờ màu mè, mục đích là để chim sẻ và các loài chim khác không tìm được chỗ đậu trong thành phố và mệt mỏi do bay quá nhiều mà chết. Trên 400.000 chim sẻ và vô số các loài chim khác bị giết chết trong ba ngày.<ref>{{zh icon}} [http://www.thjunshi.com/jmda/2012/9/12/12129_5.shtml 讲述1958年除四害运动的来龙去脉] 2012-09-12</ref> Chiến dịch được dừng lại sau khi việc loại bỏ chim sẻ khiến số [[châu chấu]] tăng đột biến.
 
Trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1958, chất lượng và số lượng thực phẩm được phục vụ trong các nhà ăn tập thể liên tục suy giảm, và các nhà ăn tập thể bị đóng cửa hoàn toàn vào đầu năm 1959.<ref name="Jinshiye1">{{zh icon}} [http://xzj.2000y.com/mb/1/readnews.asp?newsid=202860 记忆中的大跃进(一)大炼钢铁] 2004-12-06</ref> Thay vào đó, các cư dân nhận thực phẩm theo khẩu phần bằng tem phiếu (15–17&nbsp;kg cho mỗi đàn ông, 13,75&nbsp;kg cho mỗi phụ nữ, 12,75&nbsp;kg cho thanh thiếu niên, 3,75&nbsp;kg cho trẻ em dưới 10 tuổi).<ref name="Jinshiye2">{{zh icon}} [http://xzj.2000y.com/mb/1/ReadNews.asp?NewsID=202863 记忆中的大跃进(二)大锅饭] 2004-12-06</ref> Do dự báo tăng sản lượng lương thực, người ta không trồng lúa mì vụ đông vào năm 1958 khiến mùa xuân năm 1959 không có gì để thu hoạch.<ref name="Jinshiye2">(Chinese) [http://xzj.2000y.com/mb/1/ReadNews.asp?NewsID=202863 记忆中的大跃进(二)大锅饭] 2004-12-06</ref> Đến tháng 5 năm 1959, các cư dân buộc phải bổ sung chế độ ăn uống ít ỏi của họ bằng vỏ [[cây đu]], rễ cây sậy, chồi cây liễu, dền hoang, cần tây hoang và các loại cây hoang dã khác có thể ăn được.<ref name="Jinshiye2">(Chinese) [http://xzj.2000y.com/mb/1/ReadNews.asp?NewsID=202863 记忆中的大跃进(二)大锅饭] 2004-12-06</ref> Việc suy dinh dưỡng trở nên phổ biến trong thành phố. Khoảng 420.000 cư dân được đưa đến các vùng nông thôn vì thành phố không còn có thể hỗ trợ cho họ. Tình trạng thiếu lương thực khiến tỷ lệ "tử vong do nguyên nhân không tự nhiên" tại Bắc Kinh tăng từ 3,64% vào năm 1958 lên 4,4% vào năm 1961, tức có thêm 90.000 ca tử vong.<ref name="XieWendou">{{zh icon}} [http://www.21ccom.net/articles/wztj/2012/1114/70969.html 谢文斗 "中国大跃进期间(1958~1962年)非正常死亡人口"] 2012-11-14</ref>
 
=== Cách mạng văn hóa ===
[[Cách mạng văn hóa|Đại Cách mạng văn hóa vô sản]] là chiến dịch do Mao Trạch Đông phát động nhằm thay đổi cơ cấu xã hội và văn hóa của Trung Quốc, được mở đầu và kết thúc tại Bắc Kinh, với các hậu quả sâu sắc đối với thành phố và quốc gia. Mao Trạch Đông khởi đầu chiến dịch bằng việc chỉ đạo các cuộc tiến công chống lại các nhân vật chính trị-văn học tại Bắc Kinh. Mục tiêu đầu tiên là [[Ngô Hàm]]- phó thị trưởng Bắc Kinh và cũng là một sử gia, ông viết ''[[Hải Thụy bãi quan]]'', chuyển thể từ vở kịch về một quan lại liêm khiết thời Minh, từng được Mao Trạch Đông ca ngợi vào đầu thập niên 1960. Tuy nhiên, vào ngày 10 tháng 11 năm 1965, tác phẩm này bị [[Diêu Văn Nguyên]] chỉ trích là phục hồi [[Bành Đức Hoài]]. Phạm vi cuộc tấn công mở rộng đến "Tam gia thôn"- ba đồng tác gia một chuyên mục trên [[Nhân Dân nhật báo]], trong đó có tổng biên tập [[Đặng Thác]]. Bộ ba này bị cáo buộc ngầm tấn công chống Mao chủ tịch, kết quả là Đặng Thác tự tử. Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân bị cáo buộc điều hành thành phố giống như ấp phong của mình và nuôi dưỡng âm mưu chống đảng, việc tấn công Bành Chân làm suy yếu [[Lưu Thiếu Kỳ]], vốn là mục tiêu cuối cùng của Mao Trạch Đông. Chính quyền thành phố Bắc Kinh trở thành nạn nhân đầu tiên của cách mạng văn hóa, các vị trí lãnh đạo thành phố được thay thế bằng những người theo [[chủ nghĩa Mao Trạch Đông]].
 
Mao Trạch Đông mở rộng cuộc tranh giành quyền lực trong tầng lớp tinh hoa vào mùa xuân năm 1966, ông khích lệ thanh thiếu niên từ các trường đại học và trung học ở Bắc Kinh hưởng ứng chiến dịch của mình. Vào ngày 16 tháng 5 năm 1966, Mao Trạch Đông công bố "Ngũ Nhất Lục thông tri", chính thức phát động một cuộc Cách mạng văn hóa để thanh tẩy các yếu tố tư sản và Xô viết xét lại ra khỏi đảng và quốc gia, như Bành Chân. Ngày 25 tháng 5 năm 1966, một số giảng viên trẻ của Đại học Bắc Kinh do [[Niếp Nguyên Tử]] dẫn đầu viết một "[[đại tự báo]]" kết tội ban giám hiệu nhà trường cản trở Cách mạng văn hóa và kêu gọi quần chúng tiêu diệt các yếu tố phản cách mạng và thân [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Khrushchev]]. Niếp Nguyên Tử ban đầu bị trường đại học trách phạt song tấm áp phích của bà được xuất bản trên số ''Nhân Dân nhật báo'' ra ngày 2 tháng 6. Ngày 18 tháng 6, các sinh viên Đại học Bắc Kinh tổ chức [[đại hội phê đấu]] đầu tiên nhằm tố cáo các giảng viên của mình. Phu nhân của Mao Trạch Đông là [[Giang Thanh]] đến thăm trường này để thể hiện sự ủng hộ của bà đối với các sinh viên nổi loạn. Từ ngày 29 tháng 7, các phòng học tại tất cả các trường đại học và trung học tại Bắc Kinh nghỉ học, các học sinh và sinh viên tham gia Cách mạng văn hóa. Ngày 29 tháng 5, một nhóm học sinh của Trường trung học Đại học Thanh Hoa tổ chức nhóm "[[Hồng vệ binh]]" đầu tiên để bảo vệ Mao chủ tịch khỏi những kẻ thù của cách mạng, các học sinh khác tại Bắc Kinh cũng làm theo. Vào tháng 8, Mao Trạch Đông ca ngợi Hồng Vệ binh và kêu gọi họ "[[pháo đả tư lệnh bộ]]" của các yếu tố tư sản trong chính phủ. Phong trào lan rộng và Mao Trạch Đông cho Hồng Vệ binh được đi tàu và ăn ở miễn phí trên toàn quốc để truyền bá cách mạng.<ref name=WangYouQin>[http://humanities.uchicago.edu/faculty/ywang/history/1966teacher.htm Youqin Wang, "Student Attacks Against Teachers: The Revolution of 1966" Memorial for Victims of the Chinese Cultural Revolution] Accessed 2012-12-06</ref> Từ ngày 18 tháng 8 đến 26 tháng 11, Mao Trạch Đông chủ trì tám cuộc mittinh của Hồng Vệ binh tại quảng trường Thiên An Môn, với sự tham gia của tổng cộng 11 triệu thanh thiếu niên, các cuộc biểu tình giúp loại bỏ quyền lực của Lưu Thiếu Kỳ.
 
Sau khi đóng cửa các lớp học và lật đổ ban giám hiệu, Hồng Vệ binh quay sang các 'kẻ thù của cách mạng' với quy mô xã hội lớn hơn. Họ lục soát nhà của những người được xem là 'kẻ thù cùa giai cấp' nhằm tìm kiểm bằng chứng buội tộc, đập phá các di tích văn hóa được xem là [[bốn cái cũ|tàn tích của nền văn hóa phong kiến]], và đấu tranh chống lại các danh nhân chính trị và văn hóa bị cáo buộc thuộc [[tẩu tư phái]]. Trong vòng một tháng sau cuộc tập hợp đầu tiên của Mao Trạch Đông vào ngày 18 tháng 8, Hồng Vệ binh lục soát 114.000 căn nhà trong thành phố, thu giữ 3,3 triệu đồ vật và 75,2 triệu tệ.{{sfn|Wang|2003|loc =[http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_38681_23161.html "彻底清除旧物质文化"(2)]}} Khi nhiệt thành của Hồng Vệ binh lên đến đỉnh cao vào tháng 8 và tháng 9, có ít nhất 1.772 cư dân bị giết chết.<ref name=WangYouQin>[http://humanities.uchicago.edu/faculty/ywang/history/1966teacher.htm Youqin Wang, "Student Attacks Against Teachers: The Revolution of 1966" Memorial for Victims of the Chinese Cultural Revolution] Accessed 2012-12-06</ref> Nhiều người bị các Hồng vệ binh ép tự sát hoặc bị đánh đến chết.<ref name=WangYouQin>[http://humanities.uchicago.edu/faculty/ywang/history/1966teacher.htm Youqin Wang, "Student Attacks Against Teachers: The Revolution of 1966" Memorial for Victims of the Chinese Cultural Revolution] Accessed 2012-12-06</ref> Nhiều người khác bị Hồng Vệ binh và những kẻ nổi loạn sỉ nhục công khai, bị đánh đập và bắt giữ phi pháp. Nhiều di tích lịch sử bị hư hại hoặc bị phá hủy trong tình cảnh lộn xộn. Các di tích mang tính biểu tượng như Thiên Đàn, Bắc Hải, Di Hòa Viên, Viên Minh Viên, Thập Tam Lăng, Ung Hòa Cung và Trường Thành cũng là các mục tiêu.{{sfn|Wang|2003|loc =[http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_38681_23162.html "彻底清除旧物质文化"(3)]}} Hầu như tất cả những nơi thờ phượng đều bị đóng cửa. Tử Cấm Thành được bảo vệ theo lệnh của [[Chu Ân Lai]].{{sfn|MacFaquhar|2006|p=119}} Nhiều đường phố tại Bắc Kinh được đổi tên theo các khẩu hiệu cách mạng. Hồng Vệ binh còn tìm cách đổi tên Bắc Kinh thành Đông Phương Hồng.{{sfn|MacFaquhar|2006|p=119}}
 
Đến năm 1967, với việc đóng cửa trường học và các nhân vật có quyền lực bị lật đổ, các phái Hồng Vệ binh bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát các thể chế mà họ kiểm soát.<ref>Andrew G. Walder, "Ambiguity and Choice in Political Movements: the Origins of Beijing Red Guard Factionalism." ''American Journal of Sociology'' 2006 112(3): 710-750. Issn: 0002-9602 Fulltext: [[Ebsco]]</ref><ref>Joel Andreas, "Institutionalized Rebellion: Governing Tsinghua University During the Late Years of the Chinese Cultural Revolution" ''China Journal'' 2006 (55): 1-28. Issn: 1324-9347 Fulltext: [[Ebsco]]</ref> Các cuộc đụng độ bạo lực tăng lên, và một số nhóm quay sang thách thức Giang Thanh. Năm 1968, Mao Trạch Đông ra lệnh cho quân đội nắm quyền kiểm soát chính phủ, các trường đại học và nhà máy, và buộc Hồng Vệ binh phải giải tán và rời thành phố đến các vùng thôn quê, nơi họ sẽ "[[vận động thượng sơn hạ hương|trải qua cải tạo từ những người nông dân]]." Tại Đại hội Đảng lần thứ 9 được tổ chức tại Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1969, Mao Trạch Đông tuyên bố Cách mạng văn hóa hoàn thành.
Dòng 492:
Mao Trạch Đông qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 9 tháng 9 năm 1976, và [[lăng Mao Trạch Đông|lăng]] của ông tại quảng trường Thiên An Môn được hoàn thành một năm sau đó. Chưa đầy một tháng sau khi Mao Trạch Đông qua đời, vào ngày 7 tháng 10 năm 1976, [[Uông Đông Hưng]] cho bắt giữ Tứ nhân bang tại Trung Nam Hải trong một cuộc chính biến không đổ máu. Đặng Tiểu Bình được phục hồi chức vụ và sau đó đoạt lấy quyền lực từ tay người lãnh đạo chính biến là [[Hoa Quốc Phong]]. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản TQ được tổ chức vào năm 1978, dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Đảng Cộng sản phục hồi cho các nạn nhân của Cách mạng văn hóa, đảo ngược phán quyết về phong trào Tứ Ngũ, và thông qua một tiến trình chính sách cải cách kinh tế. Các kỳ thi tuyển sinh đại học được khôi phục từ năm 1977 và hầu hết các thanh niên bị đưa về nông thôn quay trở lại thành phố.
 
Cách mạng văn hóa khiến quan hệ Trung-Xô thêm căng thẳng, và khoảng 300.000 cư dân thành phố được huy động để xây dựng boongke dưới lòng đất nhằm làm nơi ở cho 40% cư dân thành phố trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công hạt nhân.<ref name=WangZhiyong>Wang, Zhiyong. "[http://www.china.org.cn/english/travel/125961.htm Beijing's Underground City]". China Internet Information Center (2005-04-15). Truy cập 2012-12-06.</ref> [[Địa Hạ Thành|Thành phố ngầm]] của Bắc Kinh được xây dựng từ năm 1969 đến 1979, sau đó được chuyển thành các trung tâm mua sắm và bảo tàng dưới lòng đất.<ref name=WangZhiyong>Wang, Zhiyong. "[http://www.china.org.cn/english/travel/125961.htm Beijing's Underground City]". China Internet Information Center (2005-04-15). Accessed 2012-12-06.</ref>
 
=== 1976-1989 ===
Từ năm 1977 đến 1979, Bắc Kinh cũng là nơi diễn ra [[Mùa xuân Bắc Kinh]] và [[Bức tường Dân chủ|Tường Dân chủ Tây Đan]], kiểm soát chính trị được nới lỏng trong một thời gian ngắn tại thành phố. Phong trào dân chủ Bắc Kinh (1978–81) đặt mục tiêu xây dựng một bản sắc [[chủ nghĩa Marx]] tiến bộ. Kết hợp với các đặc điểm liên quan của một công dân xã hội chủ nghĩa, những người ủng hộ phong trào chống lại kẻ thù từ bên ngoài và thiểu số cánh hữu ở bên trong. Bản sắc tập thể này không chỉ ngăn chặn sự đối đầu với Đảng Cộng sản, mà còn sử dụng cả tư duy Marx cổ điển và dân chủ phương Tây trong chương trình nghị sự của phong trào.<ref>Lauri Paltemaa, "Individual and Collective Identities of the Beijing Democracy Wall Movement Activists, 1978-1981." ''China Information'' 2005 19(3): 443-487. Issn: 0920-203x</ref>
 
Quy hoạch đô thị tại Bắc Kinh phát triển theo một xu hướng mới so với thời đại Mao Trạch Đông. Vào tháng 4 năm 1980, khi xem xét tài trợ cho cơ sở hạ tầng, [[Hồ Diệu Bang]] đặt ra các nguyên tắc chỉ đạo cho sự phát triển của Bắc Kinh:<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Với vai trò là trung tâm chính trị của quốc gia, Bắc Kinh cần phải trở thành một trung tâm giao lưu quốc tế để hỗ trợ sự mở cửa của Trung Quốc với thế giới.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Với vị thế là một cửa ngõ với thế giới, Bắc Kinh cần phải là thành phố có trật tự nhất, sạch sẽ nhất và cảnh quan nhất trong cả nước.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Bắc Kinh cũng cần phải trở thành một trong những thành phố tiên tiến về khoa học và công nghệ, văn hóa và giáo dục trên quy mô thế giới.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Thành phố cần nâng cao mức sống của người dân và phát triển một nền kinh tế phù hợp với những đặc điểm độc đáo của thủ đô quốc gia.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Bắc Kinh sẽ không còn thu hút các ngành công nghiệp nặng.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Năm 1981, các nhà quy hoạch thành phố nghĩ ra một kế hoạch chi tiết mà theo đó tổ chức mở rộng đô thị xung quanh các đường vành đai đồng tâm.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Vùng đô thị lõi cũ của thành phố là nơi tập trung các di tích lịch sử, từ nay sẽ phát triển với mật độ thấp.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Các cơ sở kinh doanh mới sẽ được xây dựng tại dải thứ hai (giữa [[đường vành đai 2 (Bắc Kinh)|đường vành đai 2]] và [[đường vành đai 3 (Bắc Kinh)|đường vành đai 3]]).<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Với việc áp dụng [[chính sách một con]], các nhà quy hoạch thành phố dự kiến sẽ kiểm soát được dân số thành phố ở mức 10 triệu vào năm 2000, trong đó 40% sinh sống tại trung tâm đô thị và phần còn lại sinh sống tại các cộng đồng dân cư rải rác quanh dải thứ ba.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Có thể hình dung về các cộng đồng dân cư này thông qua [[Á Vận Thôn]] ở phía bắc và [[Phương Trang]] ở phía nam. Tuyến thứ nhất của [[tàu điện ngầm Bắc Kinh]], bắt đầu hoạt động thử nghiệm vào năm 1969 song bị ảnh hưởng bởi các vấn đề kỹ thuật, cuối cùng mở cửa phục vụ công chúng vào năm 1981.
 
Ngày 4 tháng 5 năm 1989, sinh viên từ các trường đại học tại Bắc Kinh bắt đầu tập hợp tại quảng trường Thiên An Môn để bày tỏ thương tiếc về việc [[Hồ Diệu Bang]] qua đời. Trong vài ngày sau đó, [[Sự kiện Thiên An Môn|các cuộc biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn]] thu hút hàng nghìn người tham gia. Các cuộc biểu tình bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc giải tán bằng vũ lực vào ngày 4 tháng 6 năm 1989.
 
Năm 1990, dân số thường trú tại Bắc Kinh đạt 10,32 triệu người, trong đó 61% là tại các khu vực đô thị.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Ngoài ra, thành phố còn có 1,27 triệu người nhập cư không có hộ khẩu, tổng dân số là 11,59 triệu người.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref>
 
Từ 22 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 1990, Bắc Kinh tổ chức [[Á vận hội 1990|Á vận hội lần thứ 11]], với sự tham dự của 6.122 vận động viên đến từ 37 quốc gia, tranh tài ở 29 môn thi thể thao. [[Á Vận Thôn]] được xây dựng ở phía bắc trung tâm thành phố, ngoài đường vành đai 3. Sân vận động Công nhân là địa điểm chính của Á vận hội.
Dòng 509:
Thập kỷ 1990 và đầu thiên niên kỷ mới là thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tại Bắc Kinh. Sau cải cách mở cửa, những khu đất nông nghiệp xung quanh thành phố trở thành các khu dân cư và khu thương mại mới.<ref>[[#Li, Dray-Novey & Kong|Li, Dray-Novey & Kong 2007]]: 255</ref> Các tuyến đường cao tốc hiện đại và các tòa nhà cao tầng được xây dựng khắp thành phố để giải quyết vấn đề dân số ngày càng tăng và giàu có hơn. Đầu tư ngoại quốc biến Bắc Kinh thành một trong số các thành phố mang tính quốc tế và thịnh vượng nhất.
[[Tập|nhỏ|phải|Cư dân Bắc Kinh biểu tình chống Hoa Kỳ vào năm 1999 sau sự kiện Hoa Kỳ oanh kích Đại sứ quán Trung Quốc tại [[Nam Tư]]]]
Năm 1995, chính quyền thành phố Bắc Kinh chấn động bởi một vụ bê bối của hàng ngũ lãnh đạo, Uỷ viên bộ chính trị- Bí thư thị ủy [[Trần Hi Đồng]] bị loại bỏ khỏi chức vụ và phó thị trưởng [[Vương Bảo Sâm]] tự sát.<ref name="NYTChenXitong1">[http://www.nytimes.com/1995/05/08/world/beijing-party-decapitated-by-president.html?pagewanted=all&src=pm Patrick Tyler, "Beijing Party 'Decapitated' By President" ''N.Y. Times''] 1995-05-08</ref><ref name="NYTChenXitong2">[http://www.nytimes.com/1998/07/31/world/ex-party-chief-in-beijing-gets-16-years-in-prison.html Seth Faison, "Ex-Party Chief in Beijing Gets 16 Years in Prison" ''N.Y. Times''] 1998-07-31</ref> Trần Hi Đồng bị kết án 16 năm tù giam vào năm 1998 vì tội tham nhũng và sơ suất khi thi hành công vụ, trở thành quan chức cấp cao nhất bị kết án tù sau vụ xử Tứ nhân bang.<ref name="NYTChenXitong2">[http://www.nytimes.com/1998/07/31/world/ex-party-chief-in-beijing-gets-16-years-in-prison.html Seth Faison, "Ex-Party Chief in Beijing Gets 16 Years in Prison" ''N.Y. Times''] 1998-07-31</ref> Trần Hi Đồng được cho là bị hạ bệ khi tham gia đấu tranh quyền lực chống lại Chủ tịch [[Giang Trạch Dân]] và "[[Thượng Hải bang]]".<ref name="NYTChenXitong1">[http://www.nytimes.com/1995/05/08/world/beijing-party-decapitated-by-president.html?pagewanted=all&src=pm Patrick Tyler, "Beijing Party 'Decapitated' By President" ''N.Y. Times''] 1995-05-08</ref> Ông cho rằng các cáo buộc chống lại ông có động cơ chính trị.<ref name="ReutersChenXitong">[http://www.reuters.com/article/2012/05/28/us-china-politics-idUSBRE84R02K20120528 "Another ousted China party chief challenges case against him" 2012-05-28]</ref>
 
Ngày 25 tháng 4 năm 1999, trên 10.000 người theo [[Pháp Luân Công]] xuất hiện bên ngoài Trung Nam Hải để phản đối các chỉ trích chống giáo phái của truyền thông nhà nước, sau đó Pháp Luân Công bị chính phủ Trung Quốc nghiêm cấm.
 
Ngày 8 tháng 5, sau vụ oanh kích của [[NATO]] vào Đại sứ quán Trung Quốc tại [[Beograd]], [[Nam Tư]], hàng nghìn sinh viên và cư dân Bắc Kinh tuần hành trước Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Bắc Kinh. Một số người biểu tình ném các đồ vật vào sứ quán, giữ đại sứ Hoa Kỳ và nhân viên trong sứ quán vài ngày. Phó chủ tịch nước Trung Quốc khi đó là [[Hồ Cẩm Đào]] tuyên bố chính phủ ủng hộ hoạt động kháng nghị, song kêu gọi chống lại các hành vi quá khích và bất hơp pháp.<ref>[http://articles.cnn.com/1999-05-09/world/9905_09_china.protest.03_1_federal-directorate-nato-bombing-supply-and-procurement?_s=PM:WORLD "Chinese in Belgrade, Beijing protest NATO embassy bombing"] 9 tháng 5 năm 1999</ref> Sau khi phía Hoa Kỳ xin lỗi và bồi thường,<ref name="Dumbaugh">{{chú thích web|url=http://congressionalresearch.com/RS20547/document.php|title=Chinese Embassy Bombing in Belgrade:Compensation Issues|accessdate=ngày 8 tháng 4 năm 2010 |last= Dumbaugh|first= Kerry|authorlink= |coauthors= |date=ngày 12 tháng 4 năm 2000|year= |month= |work= |publisher=Congressional Research Service publication|quote= }}</ref> chính phủ Trung Quốc đồng ý trả 2,87 triệu Đô la Mỹ để bồi thường cho thiệt hại của các phái bộ ngoại giao Hoa Kỳ tại Trung Quốc.<ref name="Dumbaugh">{{cite web|url=http://congressionalresearch.com/RS20547/document.php|title=Chinese Embassy Bombing in Belgrade:Compensation Issues|accessdate=April 8, 2010 |last= Dumbaugh|first= Kerry|authorlink= |date=April 12, 2000|work= |publisher=Congressional Research Service publication|quote= }}</ref>
 
===Từ năm 2000===
[[Tập tin:Beijing National Stadium 2012.JPG|nhỏ|phải|[[Sân vận động quốc gia Bắc Kinh]], địa điểm chính tổ chức [[Thế vận hội 2008]]]]
Năm 2000, dân số Bắc Kinh đạt 13,56 triệu người, bao gồm 2,49 triệu người nhập cư tạm trú.<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> Dân số Bắc Kinh tiếp tục phát triển, chủ yếu là do nhập cư, và lên mức 15,38 triệu người vào năm 2005 (bao gồm 3,57 triệu người nhập cư tạm thời)<ref name="ModernPopulation">(Chinese) [http://zhengwu.beijing.gov.cn/zwzt/jd90/xzlt/t1168488.htm Zhou Jin (周进) "新中国成立以来北京城市规划与人口发展" 《北京学研究文集2008》] Accessed 2012-12-08</ref> và vượt 20 triệu người vào năm 2011. Trong tổng số 20,18 triệu cư dân vào năm 2011, 12,77 triệu là cư dân thường trú và người nhập cư tạm trú là 7,4 triệu (36,7%).<ref>[http://www.chinadaily.com.cn/china/2012-08/20/content_15690763.htm "Beijing's temporary population fell in 2011" ''Beijing Daily''] 2012-08-20</ref>
 
Quá trình hiện đại hóa và tăng trưởng dân số nhanh chóng gây ra nhiều vấn đề môi trường như: ùn tắc giao thông, ô nhiễm, sự tàn phá các khu phố lịch sử và một lượng lớn lao động nghèo nhập cư đến từ nông thôn. Vào đầu năm 2005, chính quyền thành phố cố gắng kiểm soát phát triển đô thị bằng cách hạn chế phát triển tại hai dải bình bán nguyệt ở phía tây và phía đông trung tâm thành phố, thay vì theo phương thức các vòng tròn đồng tâm như từng áp dụng.<ref>[[#Li, Dray-Novey & Kong|Li, Dray-Novey & Kong 2007]]: 255–256</ref>
 
Bắc Kinh tổ chức [[Thế vận hội Mùa hè 2008|Thế vận hội Mùa hè]] vào tháng 8 năm 2008. Một số công trình thể thao mang tính biểu tượng như [[Sân vận động quốc gia Bắc Kinh]], được xây dựng để phục vụ Thế vận hội.<ref>{{chú thích web|title=Election|url=http://www.olympic.org/uk/games/beijing/election_uk.asp|publisher=IOC|date=|accessdate =2008-06- ngày 15 tháng 6 năm 2008}}</ref>
 
==Chú thích==
Dòng 563:
# Shi, Mingzheng. "Beijing Transforms: Urban Infrastructure, Public Works, and Social Change in the Chinese Capital, 1900-1928." PhD dissertation Columbia U. 1993. 467 pp. DAI 1994 54(7): 2699-A. DA9333861 Fulltext: ProQuest Dissertations & Theses
# {{chú thích sách |last=Strand| first=David|title=Rickshaw Beijing: City People and Politics in the 1920s|publisher=University of California Press|year=1993|isbn=0-520-08286-9|url=http://books.google.com/?id=iSByk35JcSEC&pg=PA194&dq=%22march+18%22+feng+beijing#v=snippet&q=%22March%2018%22&f=false|ref=Strand 1993}}
#{{chú thích sách | last=Strand | first=David | editor1-last=Goldman | editor1-first=Merle | editor2-last=Perry | editor2-first=Elizabeth | editor2-link=Elizabeth J. Perry | title=Changing Meanings of Citizenship in Modern China | url=http://books.google.com/books?id=YF-ftHbw59sC&lpg=PA389&dq=1911%20huguang%20beijing&pg=PA59#v=onepage&q=huguang&f=false | accessdate =2011-02- ngày 19 tháng 2 năm 2011 | year=2002 | publisher=[[Harvard University Press]] | location=Cambridge, Massachusetts, USA | isbn=978-0-674-00766-6 | pages=59–60 | chapter=Chapter 2:Citizens in the Audience and at the Podium | ref=Strand 2002}}
# Song, Weijie. "Mapping Modern Beijing: A Literary and Cultural Topography, 1900s-1950s." PhD dissertation Columbia U. 2006. 301 pp. DAI 2006 67(4): 1346-A. DA3213600 Fulltext: ProQuest Dissertations & Theses
# {{chú thích sách |editor1-first= Denis|editor1-last=Twitchett|editor1-link=Denis C. Twitchett | editor2-last=Fairbank|editor2-first=John K|editor2-link=John K. Fairbank|title= The Cambridge History of China|volume=Volume 12, Part 1|year=1983|publisher=Cambridge University Press|isbn= 978-0-521-23541-9|ref=Cambridge History Vol 12 Part 1}}