Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Việt tại Na Uy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:09.7555580
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:11.5413257
Dòng 5:
|url=http://www.ssb.no/emner/02/01/10/innvbef/tab-2008-04-29-01.html
|title=Folkemengde 1. januar 2007 og 2008 og endringene i 2007, etter innvandringskategori og landbakgrunn. Absolutte tall
|accessdate =2008-01- ngày 25 tháng 1 năm 2008}} {{Dead link|date=October 2010|bot=H3llBot}}</ref>
|popplace = [[Oslo]], [[Bergen]], [[Kristiansand]], [[Trondheim]]
|langs = [[tiếng Việt]], [[tiếng Na Uy]]
|rels = phần lớn là theo đạo Phật giáo Đại thừa hoặc thờ phụng tổ tiên<ref>{{citation|url=http://www.buddhanet.info/wbd/search.php?keyword=vietnamese&search=Search&country_id=69&province_id=0&tradition%5B%5D=mahayana|periodical=World Buddhist Directory|title=Vietnamese Buddhist centers in Norway|date=2013|accessdate =2013-07- ngày 22 tháng 7 năm 2013}}</ref>, và Công giáo
|related = [[dân tộc Việt]], [[Việt kiều]]
}}
Dòng 26:
|url=http://www.ssb.no/emner/02/rapp_200729/rapp_200729.pdf
|title=Fakta om 18 innvandrergrupper i Norge
|accessdate =2008-01- ngày 25 tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
===Định cư===
Dòng 58:
|publisher=Statistisk Sentralbyrå
|year=2008
|accessdate = ngày 25 tháng 1 năm 2008 |url=http://www.ssb.no/emner/02/01/10/innvbef/tab-2008-04-29-11.html
|accessdate=2008-01-25
|url=http://www.ssb.no/emner/02/01/10/innvbef/tab-2008-04-29-11.html
|title=Innvandrerbefolkningen, etter landbakgrunn (de 20 største gruppene). Utvalgte kommuner. 1. januar 2008}} {{Dead link|date=October 2010|bot=H3llBot}}</ref>
|}
Hàng 65 ⟶ 64:
==Văn hóa==
===Giáo dục===
Nền văn hóa Việt Nam đặt nặng vào học vấn. Mặc dầu những người già (thế hệ di dân thứ nhất) tuổi khoảng 30 đến 40 không có trình độ học vấn cao, thế hệ thứ hai và những người trẻ thuộc thế hệ thứ nhất tuổi từ 19 cho tới 24, nói chung là có một trình độ học vấn cao hơn. Một nghiên cứu vào năm 2006 tường thuật là 88 % người Việt tốt nghiệp trung học, cùng với con số của người bản xứ.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.aftenposten.no/nyheter/oslo/article1359138.ece |title=Flittigere enn gutta|author=Anbjørg Bakken |publisher=[[Aftenposten]]|date=ngày 20 tháng 6 năm 2006|accessdate =2007-03- ngày 23 tháng 3 năm 2007}}</ref> Một nghiên cứu khác vào cùng năm đó cũng cho thấy người Việt có điểm cao nhất tại trung học trong số 10 nhóm di dân đông dân nhất ở Na Uy mà không phải từ Tây phương, trung bình đạt điểm ngang hàng với người Na Uy.<ref>{{chú thích web |author=Liv Anne Støren |url=http://www.imdi.no/upload/st%F8ren.pdf |title=Nasjonalitetsforskjeller i karakterer i videregående opplæring |accessdate =2007-03- ngày 24 tháng 3 năm 2007 |format=PDF}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.aftenposten.no/nyheter/iriks/article1517448.ece |title=Gjør det best blant innvandrere|publisher=Aftenposten|author=Ann Christiansen|date=ngày 2 tháng 11 năm 2006 |accessdate = ngày 3 tháng 4 năm 2007-04-03}}</ref><br />
Về điểm tốt nghiệp cử nhân tại đại học thì người Việt đạt được điểm cao thứ tư sau người Ấn Độ, Trung Hoa và người Na Uy, về điểm tốt nghiệp thạc sĩ thì họ đứng hạng thứ ba.<ref>
{{chú thích báo
Hàng 73 ⟶ 72:
|author=Dag Yngve Dahle
|date=ngày 2 tháng 3 năm 2006
|accessdate =2007-03- ngày 23 tháng 3 năm 2007}}</ref> Người Việt đặc biệt có nhiều đại diện trong nền giáo dục cao cấp, bởi vì theo xác suất thì họ có cơ hội tốt nghiệp cao học 10 % lớn hơn là người Na Uy.<ref>{{chú thích web |url=http://www.samfunnsforskning.no/files/file28910_tfs_2006_01.pdf|title=Utdanning hos annengenerasjon etniske minoriteter i Norge.|author=Silje Noack Fekjær|publisher=Tidsskrift for samfunnsforskning |year=2006|accessdate =2007-05- ngày 24 tháng 5 năm 2007 |format=PDF |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070927172703/http://www.samfunnsforskning.no/files/file28910_tfs_2006_01.pdf <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = 2007-09-ngày 27 tháng 9 năm 2007}}</ref>
 
===Chính trị===
Hàng 83 ⟶ 82:
|publisher=Aftenposten
|date=ngày 14 tháng 11 năm 2006
|accessdate =2007-03- ngày 23 tháng 3 năm 2007}}</ref> Tại các cuộc bầu cử xã và huyện (kommune- og fylkestingsvalg) vào năm 2003, chỉ có 30% người Na Uy gốc Việt đi bầu.<ref>{{chú thích web|url=http://www.ssb.no/vis/emner/00/01/20/vundk/main.html|title=Lav valgdeltakelse blant innvandrerne
|month=March | year=2004 |accessdate =2007-05- ngày 24 tháng 5 năm 2007 |publisher=Statistisk sentralbyrå}}</ref> Những người Việt lớn tuổi (từ 40 cho tới 59 tuổi) đi bầu khá đông, khoảng 51% - so với các nhóm di dân không từ Tây phương cùng lứa tuổi (44%) - chính thế hệ người Việt trẻ tuổi đã làm giảm đi số phần trăm người Việt đi bầu. Vào năm 2003, chỉ có 17% người Na Uy gốc Việt tuổi từ 18 tới 25, và 22% giữa tuổi từ 26 tới 39, đã đi bầu.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nvsenter.org/www/Integrering_og_mangfold_VI_i_Norge/?module=Articles;action=Article.publicShow;ID=263
|title=Myter og fakta om valgdeltakelse blant vietneamsere i Norge|author=Khang Ngoc Nguyen|date=ngày 28 tháng 8 năm 2007|accessdate =2008-01- ngày 25 tháng 1 năm 2008 |publisher=Statistisk sentralbyrå}}</ref>
 
===Gắn bó với quê hương===
Hàng 95 ⟶ 94:
|author=Jørgen Carling
|date=ngày 9 tháng 12 năm 2004
|accessdate =2007-03- ngày 22 tháng 3 năm 2007}}</ref>
 
===Những thử thách===
Hàng 103 ⟶ 102:
|publisher=[[Dagbladet]]
|date=ngày 28 tháng 4 năm 2005
|accessdate =2007-03- ngày 23 tháng 3 năm 2007}}</ref> Một nhà nhân văn xã hội học nghiên cứu về người Việt nhận ra là có một hiên tượng của người Việt, những người không thành công trong học vấn thường hay phạm tội.<ref name="dagbladet"/>{{cite newsKhuynh hướng tương tự như vậy cũng xảy ra đối với người Việt ở Hoa kỳ. Dường như những người trẻ không thành tài cần những quan hệ chặt chẽ với cha mẹ. Ngoài ra một số người Việt còn gặp khó khăn nói tiếng Na Uy cũng như vốn liếng từ ngữ Na Uy quá ít.
|url=http://www.dagbladet.no/magasinet/2005/04/28/430113.html
|author=Astrid Meland |title=Mer kriminelle enn nordmenn
|publisher=[[Dagbladet]]
|date=April 28, 2005
|accessdate=2007-03-23}}</ref> Khuynh hướng tương tự như vậy cũng xảy ra đối với người Việt ở Hoa kỳ. Dường như những người trẻ không thành tài cần những quan hệ chặt chẽ với cha mẹ. Ngoài ra một số người Việt còn gặp khó khăn nói tiếng Na Uy cũng như vốn liếng từ ngữ Na Uy quá ít.
 
====Các vấn đề tâm lý====
Nhiều người Việt, nhất là trong số những thế hệ lớn tuổi có những chấn thương tinh thần trong và sau cuộc chiến tranh Việt Nam. Một cuộc nghiên cứu dựa trên 148 người tị nạn tới Na Uy cho tới khoảng 3 năm được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, cho thấy nhiều người trong số này có những va chạm trực tiếp với cuộc chiến tranh.<ref>{{chú thích web |url=http://www.nkvts.no/bibliotek/Publikasjoner/PSSF/Linjer/1999-2/vietnamesiske.pdf|title=Vietnamesiske flyktninger i Norge - noen refleksjoner i etterkant av et forskningsprosjekt. |publisher=Nasjonalt kunnskapssenter om vold og traumatisk stress |author=Evard Hauff|year=1999|accessdate = ngày 24 tháng 5 năm 2007 |format=PDF |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070927172655/http://www.nkvts.no/bibliotek/Publikasjoner/PSSF/Linjer/1999-052/vietnamesiske.pdf <!-24- Bot retrieved archive --> |archivedate = ngày 27 tháng 9 năm 2007}}</ref> 62% là nhân chứng của những vụ thả bom, cháy nhà, và bắn nhau và 48% đã chứng kiến thấy người bị thương hay bị giết chết. Cứ bốn người là có một người bị rơi vào tình trạng đe dọa mạng sống hay bị thương trong chiến tranh. Một trong 10 người bị đưa vào trại học tập cải tạo. Những người này cho là nó rất giống trại tập trung, nơi mà họ không biết là bao giờ thì họ mới được thả ra, và đã là những nạn nhân của những phương pháp trừng phạt nặng nề.
|format=PDF |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070927172655/http://www.nkvts.no/bibliotek/Publikasjoner/PSSF/Linjer/1999-2/vietnamesiske.pdf <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = 2007-09-27}}</ref> 62% là nhân chứng của những vụ thả bom, cháy nhà, và bắn nhau và 48% đã chứng kiến thấy người bị thương hay bị giết chết. Cứ bốn người là có một người bị rơi vào tình trạng đe dọa mạng sống hay bị thương trong chiến tranh. Một trong 10 người bị đưa vào trại học tập cải tạo. Những người này cho là nó rất giống trại tập trung, nơi mà họ không biết là bao giờ thì họ mới được thả ra, và đã là những nạn nhân của những phương pháp trừng phạt nặng nề.
Những chấn thương tinh thần này ảnh hưởng tới sức khỏe tâm lý của người tị nạn cả tới 7 năm sau cuộc chiến. Sau 3 năm ở Na Uy, vẫn không thấy có dấu hiệu thay đổi trong tâm lý của người tị nạn. Cứ bốn người là có một người có vấn đề tâm thần. Thường là bị trầm cảm và những lo lắng xuất phát từ những chấn thương tinh thần cũ.