Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại La”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: {{fact}} → {{cần chú thích|date=04-8-2015}} (8) using AWB |
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:04.6388947 |
||
Dòng 2:
'''Đại La''' ([[chữ Hán]]: 大羅), còn có các tên gọi khác là ''Đại La thành'', ''Thành Đại La'', ''La Thành'' (羅城) là tên gọi trước đây của [[Hà Nội]] trong hai [[thế kỷ 8]] và [[thế kỷ 9]].
'''Đại La''' ban đầu do [[Trương Bá Nghi]] cho đắp từ năm [[Đại Lịch]] thứ 2 đời [[Đường Đại Tông]] (767);{{cần chú thích|date =
Đến năm [[Nguyên Hòa]] thứ 3 đời [[Đường Hiến Tông]] (808), [[Trương Chu]] lại sửa đắp lại;{{cần chú thích|date =
Theo sử cũ thì La Thành do [[Cao Biền]] cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường<ref>Bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn hay đê con chạch đắp trên mặt đê chính</ref> bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn[5], 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà.{{cần chú thích|date =
Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng [[sông Tô Lịch]], Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng [[long mạch]] của vùng đất này. Các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích của bùa yểm này.{{cần chú thích|date =
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đổi tên phủ thành Đại La là thành [[Thăng Long]].{{cần chú thích|date =
==Xem thêm==
Dòng 21:
{{Tham khảo}}
== Liên kết ngoài ==
{{sơ khai}}
[[Thể loại:Lịch sử Hà Nội]]
|