Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ấn Độ giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{commonscat → {{thể loại Commons using AWB
Dòng 20:
==== Nguồn gốc và thánh điển ====
[[Tập tin:The Rig Veda.jpg|nhỏ|225px|phải|Một trang của ''[[Lê-câu-phệ-đà bản tập]]'' (sa. ''ṛgvedasaṃhitā''), ấn bản của nhà Ấn Độ học [[Max Müller]], trình bày hai câu kệ ''Puruṣasūkta'', 10.90, với chú giải của Sāyaṇa]]
Với tư cách là tôn giáo cổ nhất Ấn Độ với thánh điển còn lưu lại, Ấn giáo Phệ-đà (''vedic religion'') giữ một vai trò đặc biệt trong việc nghiên cứu tôn giáo sử của Ấn Độ. Tôn giáo này có nhiều điểm rất giống tôn giáo Cổ Iran và qua tên của các vị thần, người ta có thể thấy được mối quan hệ với tôn giáo La Mã, Hy LạpLạ và Điều Đốn (en. ''teuton'', người Đức thời xưa). Trong một văn bản hợp đồng của Mitanni (một đế quốc Ấn-Ba Tư miền bắc khu vực [[Lưỡng Hà]]), người ta tìm thấy tên của các vị thần Phệ-đà như Mật-đa-la (密多羅, sa. ''mitra''), Phạt-lâu-na (zh. 伐樓那, sa. ''varuṇa''), Nhân-đà-la (zh. 因陀羅, sa. ''indra'') và các Mã Đồng (zh. 馬童, sa. ''aśvin''). Tín đồ Phệ-đà giáo là những bộ tộc bán [[du mục]], du nhập Ấn Độ từ miền Tây và Tây bắc trong khoảng thời gian 1700-1200 trước CN qua nhiều đợt. Họ tự gọi là [[Nhã-lợi-an]] (zh. 雅利安, sa. ''ārya'', de. ''arier'', en. ''aryan''). Tôn giáo của họ thuộc hệ đa thần với cơ sở nghi lễ tôn giáo là việc cúng tế thần linh. Người thực hiện cầu đảo thần linh bằng một bài tán tụng. Đàn tế lễ được lập một cách nghiêm trang với ba loại lửa, việc tế lễ được thực hiện bởi nhiều tế sư khác nhau cùng với các bài kệ tụng (sa. ''ṛc''), ca vịnh (sa. ''sāman''), câu tế đảo (sa. ''yajus''), và các [[chân ngôn]] (sa. ''mantra''). Vật tế lễ là Tô-ma (zh. 蘇摩, sa. ''soma''), thú vật, bơ lỏng, ngũ cốc và thực phẩm đã được nấu chín. Tổ tiên (sa. ''pitṛ'') cũng được cúng tế. Bốn bộ Phệ-đà (Tứ Phệ-đà 四吠陀) là những tác phẩm tôn giáo và thi ca sớm nhất của gia đình [[hệ ngôn ngữ Ấn-Âu]]. Trong bốn bộ này, ''[[Lê-câu-phệ-đà]]'' (zh. 棃俱吠陀, sa. ''ṛgveda'') giữ một vai trò đặc biệt, bao gồm mười [[mạn-đà-la]] (sa. ''maṇḍala'') với 1028 bài tán tụng (vì vậy cũng được dịch nghĩa là ''Tán tụng minh luận'' 讚誦明論). ''Lê-câu-phệ-đà'' được xem là nguồn văn bản cổ nhất ghi lại các khái niệm thượng đế và thần thoại của những người Nhã-lợi-an Phệ-đà. Công trình biên tập Lê-câu-phệ-đà có lẽ được kết thúc vào khoảng 1000 TCN. Bốn bộ Phệ-đà cùng với các bộ [[Phạm thư]] (zh. 梵書, sa. ''brāhmaṇa'', có nội dung chỉ rõ nghi thức tụng niệm, làm lễ), ''[[Sâm lâm thư]]'' (zh. 森林書, sa. ''āraṇyaka'', có nội dung phỏng đoán về những vấn đề siêu hình), cũng như ''[[Áo nghĩa thư]]'' (zh. 奧義書, sa. ''upaniṣad'') được xem là những văn bản [[Thiên khải]] (zh. 天啓, sa. ''śruti''), tức là được "trời khai mở cho thấy". Chúng đã gây ảnh hưởng rất lớn đến các nhánh tôn giáo sau này tại Ấn Độ. Người Ấn Độ thời Phệ-đà cầu mong các thần thánh ban cho nhiều con, sức khoẻ, phồn vinh, thắng kẻ thù, một cuộc sống trăm năm cũng như sự thứ lỗi cho những lần vi phạm quy luật vũ trụ hoặc "chân lí" (sa. ''ṛta''), và sau khi chết được lên thiên đường (sa. ''svarga''), trú xứ của Đế Thích (sa. ''indra'', Nhân-đà-la) và chư thiên khác. Trách nhiệm của những người sùng tín là: 1. nghiên cứu kinh điển, giữ đúng lễ nghi tế tự, 2. tế tự chư thiên và tổ tiên và 3. nuôi dưỡng con trai để có thể giữ truyền thống cúng tế lâu dài.
 
==== "Bà-la-môn giáo" và những bước phát triển mới ====