Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lăng Ông (Bà Chiểu)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tokeisan (thảo luận | đóng góp)
Tokeisan (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 39:
Phần mộ gồm hai ngôi mộ song táng: Tả quân và vợ là bà Đỗ Thị Phận<ref>Tên ghi theo tài liệu của Ban Quý Tế Lăng Ông. Cũng theo đây, thì bà là một cung nhân nết na, được vua [[Gia Long]] đứng ra gả cưới. Vương Hồng Sển ghi tên bà là ''Đỗ Thị Phẫn''. Khi Lê Tả quân bị tội, bà về ngụ nơi xóm Chợ Rẫy, trong một ngôi chùa [[Phật]], do bà mẹ năm xưa đứng tạo lập tục danh là Chùa Bà Dội (''Sài Gòn năm xưa'', Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 86 và 160). Lý Việt Dũng ghi bà tên Phấn. Bà không bị giết vì Lê Văn Duyệt là người yêm hoạn, theo luật thời bấy giờ, bà không phải là vợ nên được miễn nghị. Còn tên chùa, ông Dũng ghi là chùa Bà Dồi, ở gần [[Bệnh viện Chợ Rẫy]] (''Lê Văn Duyệt với vùng đất Nam Bộ'', tạp chí Xưa và Nay xuất bản, 2008, tr. 155).</ref>. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả [[trứng]] [[ngỗng]] xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn [[hình chữ nhật]]. Trước mộ có một khoảnh sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt [[nhang]] đèn.
 
Ngoài ra, ở đây còn hai phần mộ nhỏ của hai cô hầu <ref>Mặc dù có khuyết tật về sinh lý (ái nam ái nữ), nhưng Tả quân vẫn cưới vợ rồi chọn thêm hai cô hầu nữa. Theo Sơn Nam, thì đó là hành động tượng trưng, để chứng tỏ là nam giới. Có lẽ mộ bia của hai cô hầu đều đã bị đập phá theo lệnh của vua Minh Mạng. Nhưng về sau không thấy dựng lại khi danh dự của Tả quân bị phục hồi, nên không biết họ tên, ngày sinh và ngày mất của hai cô (sách đã dẫn, tr. 136) .</ref>.
[[Tập tin:Mộ cô hầu.jpg|nhỏ|100px200px|Mộ cô hầu]].</ref>.
 
===Miếu thờ===
Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực "Thượng công linh miếu", nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một khoảnh sân lộ thiên, gọi là ''sân thiên tỉnh'' (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang.