Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Io (vệ tinh)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:20.4360000 |
Đã lùi về phiên bản 21932682 bởi TuanminhBot (thảo luận): Lùi về bản ổn định không có lỗi chú thích. (TW) |
||
Dòng 21:
| physical_characteristics = yes
| mean_radius = 1.821,3 km (0,286 Trái Đất)<ref name=Thomas1998>{{chú thích tạp chí |last=Thomas |first=P. C. |coauthors=''và ctv.'' |date=1998 |title=The Shape of Io from Galileo Limb Measurements |journal=Icarus |volume=135 |issue=1 |pages=175–180 |url=http://adsabs.harvard.edu/cgi-bin/nph-data_query?bibcode=1998Icar..135..175T&db_key=AST&link_type=ABSTRACT&high=45f9f8ee3002809}}</ref>
| dimensions = 3.660,0 × 3.637,4 × 3.630,6 km<ref name="Thomas1998"/>
| surface_area = 41.910.000 [[kilômét vuông|km²]] (0,082 Trái Đất)
| volume = 2,53{{e|10}} [[mét khối|km³]] (0,023 Trái Đất)
Hàng 45 ⟶ 43:
'''Io''' ([[Bảng mẫu tự phiên âm quốc tế|IPA]]: ˈaɪoʊ; [[tiếng Hy Lạp]]: Ῑώ) là [[vệ tinh tự nhiên]] nằm [[Vệ tinh tự nhiên của Sao Mộc|phía trong cùng]] trong số bốn [[vệ tinh Galileo]] của [[Sao Mộc]] và với [[đường kính]] 3.642 [[kilômét]], là [[Danh sách vệ tinh theo đường kính|vệ tinh lớn thứ tư]] bên trong [[hệ Mặt Trời]]. Nó được đặt theo tên [[Io (thần thoại)|Io]], người nữ tư tế của [[Hera]] và sau đó trở thành tình nhân của thần [[Zeus]].
Với hơn 400 núi lửa đang hoạt động, Io là thiên thể có hoạt động địa chất mạnh nhất trong hệ Mặt Trời<ref name=
Hoạt động núi lửa của Io là nguyên nhân gây ra phần lớn những đặc điểm độc đáo của vệ tinh này. Các cột khói núi lửa và các dòng dung nham trên Io tạo ra những thay đổi bề mặt lớn và tô lên đó nhiều màu sắc đỏ, vàng, trắng, đen và xanh, chủ yếu vì các hợp chất lưu huỳnh. Nhiều dòng chảy dung nham lớn, dài hơn 500 km, cũng là đặc điểm của bề mặt. Những quá trình núi lửa này khiến bề mặt của Io được so sánh với một chiếc bánh [[pizza]]. Các chất do núi lửa phun ra là vật liệu tạo thành khí quyển mỏng và loang lổ của Io và quyển từ lớn của Sao Mộc.
Hàng 56 ⟶ 54:
Tuy [[Simon Marius]] không được cho là người duy nhất phát hiện ra các vệ tinh loại Galile, những cái tên được ông đặt cho các vệ tinh này vẫn tồn tại. Trong lần xuất bản năm 1614 cuốn ''[[Simon Marius|Mundus Jovialis]]'' của mình, ông đã đặt tên cho vệ tinh ở gần nhất của Sao Mộc theo một nhân vật trong [[thần thoại Hy Lạp]] là [[Io (thần thoại)|Io]], một trong số nhiều người tình của thần [[Zeus]] (hay [[Zeus|Jupiter]] trong [[thần thoại La Mã]])<ref>{{chú thích tạp chí |last=Marius |first=S. |authorlink=Simon Marius |date=1614 |title=Mundus Iovialis anno M.DC.IX Detectus Ope Perspicilli Belgici |url=http://galileo.rice.edu/sci/marius.html}} (trong đó ông [http://galileo.rice.edu/sci/observations/jupiter_satellites.html gợi ý] cho Johannes Kepler)</ref>. Những cái tên do Marius đwa ra không được ưa chuộng, và mãi tới giữa thế kỷ 20 mới được sử dụng nhiều trở lại. Trong đa số tác phẩm văn học, thiên văn học thời kỳ trước đó, Io chỉ đơn giản được gọi theo số định danh [[Số La Mã|La Mã]] (một hệ thống do Galileo đưa ra) là "'''Jupiter I'''", hay đơn giản là "vệ tinh đầu tiên của Sao Mộc". <!--Hình thức tính từ thông dụng nhất của cái tên này là ''Ionian'' Không có kiểu tính từ này trong tiếng Việt.-->
Các đặc điểm trên vệ tinh Io được đặt tên theo các nhân vật và địa điểm trong thần thoại Io, cũng như các nữ thần lửa, núi lửa, [[Mặt Trời]], thần sấm từ nhiều thần thoại khác nhau, và các nhân vật cùng địa điểm trong phần ''[[Thần khúc|Inferno]]'' của [[Dante Alighieri|Dante]], những cái tên thích hợp với đặc điểm nhiều núi lửa trên bề mặt<ref name=NameCategories>{{chú thích web | last=Blue | first=Jennifer | date=ngày 16 tháng 10 năm 2006 |url=http://planetarynames.wr.usgs.gov/append6.html | title=Categories for Naming Features on Planets and Satellites | publisher=USGS | accessdate= ngày 14 tháng 6 năm 2007}}</ref>. Từ khi bề mặt của nó lần đầu tiên được quan sát cận cảnh bởi ''[[Voyager 1]]'' [[Hiệp hội Thiên văn Quốc tế|Liên minh Thiên văn Quốc tế]] đã thông qua 225 tên gọi cho các núi lửa, núi, cao nguyên, và các đặc điểm suất phản chiếu lớn trên Io. Những tên gọi đã được thông qua cho Io gồm ''patera'' (vùng lõm núi lửa), ''mons'', ''mensa'', ''planum'' và ''tholus'' (nhiều kiểu núi, với các đặc điểm hình thái học như kích cỡ, hình dạng và độ lớn sẽ quyết định thuật ngữ được sử dụng), ''fluctus'' (dòng dung nham), ''vallis'' (kênh dung nham), ''regio'' (đặc điểm suất phản chiếu tỷ lệ lớn) và ''active eruptive center'' (nghĩa là ''trung tâm nổ bùng hoạt động'', nơi hoạt động phun khói là dấu hiệu đầu tiên của hoạt động núi lửa tại một núi lửa cụ thể)<ref name=
== Lịch sử quan sát ==
Hàng 71 ⟶ 69:
[[Tập tin:Volcanic crater with radiating lava flows on Io.jpg|nhỏ|Hình chụp miệng núi lửa của Io do Voyager 1 chụp]]
<!-- [[Hình:Jupiter and Io as seen by Voyager 1.jpg|nhỏ|Sao Mộc và Io do Voyager 1 chụp]] -->
Tàu vũ trụ đầu tiên bay ngang qua Io là bộ đôi tàu thăm dò ''[[Pioneer 10]]'' và ''[[Pioneer 11|11]]'' tương ứng vào ngày [[3 tháng 12]] năm [[1973]] và ngày [[2 tháng 12]] năm [[1974]]<ref name=PioneerChap5>{{chú thích web |url=http://history.nasa.gov/SP-349/ch5.htm |title=First into the Outer Solar System |accessdate = ngày 5 tháng 6 năm 2007 |last=Fimmel |first=R. O. |coauthors=''và ctv.'' |date=1977 |year= |month= |format= |work=Pioneer Odyssey |publisher=NASA |pages= |language= |archiveurl= |archivedate= |quote=}}</ref>. Thám sát vô tuyến đã cho kết quả ước lượng chính xác hơn về khối lượng cũng như thông tin có thể có tốt nhất về kích cỡ của Io, theo kết quả này Io có mật độ cao nhất trong số các vệ tinh Galile, và chủ yếu gồm đá silicat chứ không phải nước đóng băng<ref name=Anderson1974>{{chú thích tạp chí | last=Anderson |first=J. D. |coauthors=''và ctv.'' |title=Gravitational parameters of the Jupiter system from the Doppler tracking of Pioneer 10 |journal=Science |volume=183 |issue= |pages=322–323 |date=1974 |url= |doi = }}</ref>. Hai tàu ''Pioneer'' cũng phát hiện một khí quyển mỏng trên Io và các vành đai bức xạ lớn gần quỹ đạo Io. Camera trên tàu ''Pioneer 11'' đã chụp được bức ảnh tốt duy nhất về Io, vùng cực bắc của vệ tinh này<ref name=Pioneer11image>{{chú thích web |url=http://www2.jpl.nasa.gov/galileo/io/pioio.html |title=''Pioneer 11'' Images of Io |work=Galileo Home Page |accessdate = ngày 21 tháng 4 năm 2007}}</ref>. Các hình cận cảnh đã được dự định thực hiện khi ''Pioneer 10'' tới Io, nhưng những cuộc quan sát đó đã mất vì môi trường bức xạ cao ở đây<ref name=
=== ''Voyager'' ===
Hàng 132 ⟶ 130:
== Tương tác với quyển từ của Sao Mộc ==
[[Tập tin:Jupiter magnetosphere schematic.jpg|nhỏ|250px|trái|Biểu đồ quyền từ của Sao Mộc và các thành phần bị ảnh hưởng bởi Io (gần trung tâm hình): đường gờ plasma (màu đỏ), đám mây trung tính (màu vàng), ống thông lượng (màu xanh lá cây), và các đường từ trường (màu xanh nước biển).<ref name=SpencerGraphic>{{chú thích web |url=http://www.boulder.swri.edu/~spencer/digipics.html |title=John Spencer's Astronomical Visualizations |accessdate = ngày 25 tháng 5 năm 2007 |last=Spencer |first=J. |coauthors= |date= |year= |month= |format= |work= |publisher= |pages= |language= |archiveurl= |archivedate= |quote= }}</ref>]]
Io đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành từ trường Sao Mộc. Quyển từ của Sao Mộc quét sạch khí và bụi khỏi khí quyển mỏng của Io với tốc độ 1 [[tấn]] trên giây<ref name=IobookChap11>{{chú thích sách |last=Schneider |first=N. M. |coauthors=Bagenal F. |editor=Lopes R. M. C.; Spencer J. R. |title=Io after Galileo |year=2007 |publisher=Springer-Praxis |isbn=3-540-34681-3 |pages=265–286 |chapter=Io's neutral clouds, plasma torus, and magnetospheric interactions}}</ref>. Vật liệu này chủ yếu hình thành từ lưu huỳnh, ôxy và clo [[ion]] hóa và nguyên tử; natri và kali nguyên tử; điôxít lưu huỳnh và lưu huỳnh phân tử; và bụi [[natri clorua|clorua natri]]<ref name=
Bao quanh Io (với khoảng cách 6 lần bán kính Io từ bề mặt của vệ tinh này) là một đám mây bao gồm các nguyên tử lưu huỳnh, ôxy, natri và kali trung tính. Các nguyên tử có nguồn gốc ở phần phía trên khí quyển Io nhưng bị kích thích từ các va chạm với các ion trong đường gờ [[plasma]] (được thảo luận bên dưới) và các quá trình khác vào trong [[quyển Hill]] của Io, đây là vùng vệ tinh này có lực hấp dẫn áp đảo so với lực hấp dẫn của Sao Mộc. Một số vật liệu này thoát khỏi lực kéo hấp dẫn của Io và đi vào quỹ đạo quanh Sao Mộc. Sau một chu kỳ 20 giờ, các phân tử trải dài khỏi Io thành hình một trái chuối, đám mây trung tính có thể đạt tới khoảng cách 6 lần bán kính Sao Mộc từ Io, cả bên trong quỹ đạo Io và hướng về phía trước vệ tinh này hay phía ngoài quỹ đạo Io và hướng về phía sau nó<ref name=
Io bay trên quỹ đạo trong một vành đai bức xạ mạnh được gọi là quầng plasma Io. Plasma trong vòng hình bánh gồm lưu huỳnh ion hoá, ôxy, natri, và clo phát sinh khi các nguyên tử trung tính trong đám "mây" bao quanh Io bị ino hóa và bị mang đi bởi quyển từ Sao Mộc<ref name=
Trong một lần giáp mặt với Sao Mộc năm 1992, tàu vũ trụ ''[[Ulysses (tàu vũ trụ)|Ulysses]]'' đã phát hiện một dòng các hạt kích cỡ bụi đang bị phun ra khỏi hệ Sao Mộc<ref name=Grun1993>{{chú thích tạp chí | last=Grün |first=E. |coauthors=''và ctv.'' |title=Discovery of Jovian dust streams and interstellar grains by the ULYSSES spacecraft |journal=Nature |volume=362 |issue= |pages=428–430 |date=1993 |url= |doi = }}</ref>. Bụi trong những dòng rời rạc này bay khỏi Sao Mộc với tốc độ lên tới hàng trăm kilômét mỗi giây, có kích thước trung bình 10 [[micrômét|μm]], và chủ yếu gồm clorua natri<ref name=Postberg2006/><ref name=Zook1996>{{chú thích tạp chí | last=Zook |first=H. A. |coauthors=''và ctv.'' |title=Solar Wind Magnetic Field Bending of Jovian Dust Trajectories |journal=Science |volume=274 |issue=5292 |pages=1501–1503 |date=1996 |url= |doi = }}</ref>. Những đo đạc bụi của ''Galileo'' cho thấy những dòng bụi xuất phát từ Io, nhưng cơ chế chính xác về việc chúng hình thành như thế nào, hoặc từ hoạt động núi lửa của Io hoặc vật liệu bị bắn đi từ bề mặt, vẫn chưa được biết rõ<ref name=Grun1996>{{chú thích tạp chí | last=Grün |first=E. |coauthors=''và ctv.'' |title=Dust measurements during ''Galileo's'' approach to Jupiter and Io encounter |journal=Science |volume=274 |issue= |pages=399–401 |date=1996 |url= |doi = }}</ref>.
Các đường [[từ trường]] của Sao Mộc, mà Io xuyên qua, gắn Io với khí quyển phía trên cực của Sao Mộc qua việc [[Định luật cảm ứng Faraday|phát sinh]] một [[dòng điện]] được gọi là [[ống thông lượng]] của Io<ref name=
== Cấu trúc ==
Hàng 152 ⟶ 150:
=== Nhiệt thủy triều ===
Không giống Mặt Trăng của Trái Đất, nguồn nhiệt chính bên trong của Io có xuất xứ từ sự tiêu mòn [[thủy triều]] chứ không phải do sự phân rã [[đồng vị]] hạt nhân, kết quả của sự cộng hưởng quỹ đạo của Io với Europa và Ganymede<ref name=Peale1979a/>. Nguồn nhiệt này phụ thuộc vào khoảng cách của Io với Sao Mộc, độ lệch tâm quỹ đạo, thành phần bên trong và tình trạng vật lý của nó<ref name=
=== Bề mặt ===
Hàng 164 ⟶ 162:
{{toàn cảnh|Io_from_Galileo_and_Voyager_missions.jpg|850px|Bản đồ bề mặt Io}}
[[Hoạt động núi lửa trên Io#Khói|Núi lửa phun nổ]], thường ở hình thức các đám khói hình nấm, khiến bề mặt Io được bao phủ các vật liệu lưu huỳnh và silicat. Các lắng đọng khói trên Io thường có màu đỏ hay trắng tùy thuộc vào khối lượng lưu huỳnh và điôxít lưu huỳnh trong khói. Nói chung, các đám khói hình thành tại các miệng phun núi lửa từ dung nham khử khí có chứa một lượng lớn S<sub>2</sub>, tạo ra một lớp lắng đọng "hình quạt" đỏ, hay trong các trường hợp ngoại lệ, những vòng tròn đỏ lớn (thường vượt hơn 450 km (280 dặm) từ tâm miệng núi lửa<ref name=Spencer2000b>{{chú thích tạp chí | last=Spencer |first=J. |coauthors=''và ctv.'' |title=Discovery of Gaseous S<sub>2</sub> in Io's Pele Plume |journal=Science |volume=288 |issue= |pages=1208–1210 |date=2000 |url= |doi = }}</ref>. Một ví dụ điển hình về một vòng tròn đỏ khói lắng đọng nằm tại núi lửa Pele. Những lắng đọng màu đỏ này gồm chủ yếu lưu huỳnh (thường là phân tử lưu huỳnh chuỗi 3- và 4-), điôxít lưu huỳnh, và có lẽ cả Cl<sub>2</sub>SO<sub>2</sub><ref name=
Bản đồ thành phần cấu tạo và mật độ cao của Io cho thấy nó có chứa ít hoặc không có [[nước]], dù những túi nhỏ chứa nước đóng băng hay [[Khoáng chất hydrat hoá|các khoáng chất hydrat hóa]] có lẽ đã được xác định, đáng chú ý nhất là ở sườn phía tây bắc núi [[Gish Bar Mons]]<ref name=Doute2004>{{chú thích tạp chí | last=Douté |first=S. |coauthors=''và ctv.'' |title=Geology and activity around volcanoes on Io from the analysis of NIMS |journal=Icarus |volume=169 |issue= |pages=175–196 |date=2004 |url= |doi = }}</ref>. Sự thiếu vắng nước có lẽ bởi Sao Mộc trong buổi đầu [[Sự hình thành và phát triển của Hệ Mặt Trời|phát triển của hệ Mặt Trời]] đủ nóng để đẩy đi hết các [[chất dễ bay hơi]] như nước trong vùng phụ cận của Io, nhưng không đủ nóng để thực hiện việc đó ở khoảng cách xa hơn.
Hàng 174 ⟶ 172:
Nhiệt thủy triều do sự [[lệch tâm quỹ đạo]] cưỡng bức của Io tạo ra đã khiến vệ tinh này trở thành một trong những thiên thể có hoạt động núi lửa mạnh nhất trong hệ Mặt Trời, với hàng trăm trung tâm núi lửa và [[Dung nham|các dòng dung nham]] lớn. Trong một đợt phun trào lớn, các dòng chảy dung nham dài hàng chục thậm chí hàng trăm kilômét có thể được thạo ra, chủ yếu gồm các dòng dung nham [[đá bazan|bazan]] silicat với các thành phần hoặc [[mafic]] hay [[Đá siêu mafic|siêu mafic]] (giàu magiê). Như một sản phẩm phụ của hoạt động này, lưu huỳnh, khí điôxít lưu huỳnh và vật liệu [[Đá mạt vụn núi lửa|mạt vụn núi lửa]] silicat (như tro) bị thổi lên độ cao tới 500 km (310 dặm) vào không gian, tạo ra những đám khói lớn, hình nấm, khiến bề mặt loang lổ màu đỏ, đen và trắng, và cung cấp vật liệu cho khí quyển mỏng của Io cũng như quyển từ lớn của Sao Mộc.
Bề mặt Io có rải rác các vùng lõm núi lửa được gọi là ''paterae''<ref name=Radebaugh2001>{{chú thích tạp chí | last=Radebaugh |first=J. |coauthors=''và ctv.'' |title=Paterae on Io: A new type of volcanic caldera? |journal=J. Geophys. Res. |volume=106 |issue= |pages=33005–33020 |date=2001 |url= |doi = }}</ref>. Paterae nói chung có đáy phẳng được bao quanh bởi các bức tường dốc. Những đặc điểm này giống với các [[hõm chảo núi lửa]] trên Trái Đất, nhưng ta không biết nếu chúng được tạo ra sau sự sụp đổ một buồng dung nham trống rỗng như kiểu các hõm chảo trên Trái Đất hay không. Một giả thiết cho rằng những đặc điểm đó đã được tạo thành bởi sự đào lên của các [[Sill (địa chất)|sill]] núi lửa, và vật liệu nằm phía trên hoặc đã bị bắn ra hoặc đã tích hợp vào sill<ref name=Keszthelyi2004>{{chú thích tạp chí | last=Keszthelyi |first=L. |coauthors=''và ctv.'' |title=A Post-Galileo view of Io's Interior |journal=Icarus |volume=169 |issue= |pages=271–286 |date=2004 |url= |doi = }}</ref>. Không giống các đặc điểm tương tự trên Trái Đất và Sao Hỏa, những chỗ lõm đó nói chung không nằm ở trên đỉnh của các [[núi lửa hình khiên]] và thường to lớn hơn, với đường kính trung bình 41 km (25 dặm), vùng lõm lớn nhất là [[Loki Patera]] có đường kính 202 km (126 dặm)<ref name=
Các dòng dung nham thể hiện một kiểu địa hình núi lửa chính khác trên Io. Macma phun trào lên bề mặt từ các miệng phun ở đáy paterae hay trên các đồng bằng từ các vết nứt, tạo ra các dòng dung nham phồng, phức hợp tương tự như những dòng nhung nham được quan sát thấy tại [[Kīlauea|Kilauea]] ở Hawaii. Những hình ảnh thu được từ tàu vũ trụ ''Galileo'' cho thấy nhiều dòng dung nham lớn trên Io, như những dòng dung nham tại núi lửa [[Prometheus (núi lửa)|Prometheus]] và [[Amirani (núi lửa)|Amirani]], được tạo ra bởi sự bồi đắp những dòng dung nham nhỏ phía trên những dòng dung nham cũ<ref name=Keszthelyi2001>{{chú thích tạp chí | last=Keszthelyi |first=L. |coauthors=''và ctv.'' |title=Imaging of volcanic activity on Jupiter's moon Io by Galileo during the Galileo Europa Mission and the Galileo Millennium Mission |journal=J. Geophys. Res. |volume=106 |issue= |pages=33025–33052 |date=2001 |url= |doi = }}</ref>. Những vụ bùng phát dung nham lớn hơn cũng đã được quan sát thấy trên Io. Ví dụ cạnh trước của dòng Prometheus di chuyển 75 tới 95 km (47 tới 59 dặm) giữa lần quan sát của ''Voyager'' năm 1979 và những lần quan sát đầu tiên của ''Galileo'' năm 1996. Một cuộc phun trào lớn năm 1997 đã tạo ra hơn 3.500 km² (1.350 dặm vuông) dung nham và làm ngập tràn đáy của Pillan Patera gần đó<ref name=Mcewen1998/>.
[[Tập tin:Tvashtarvideo.gif|nhỏ|200 px|Dãy năm hình do ''[[New Horizons]]'' chụp thể hiện vật liệu bị núi lửa Tvashtar trên Io phun ra cao tới 330 km trên bề mặt của nó.]]
Việc phân tích các hình ảnh của ''Voyager'' khiến các nhà khoa học tin rằng những dòng dung nham đó chủ yếu được tạo thành bởi nhiều hợp chất lưu huỳnh nóng chảy. Tuy nhiên, những nghiên cứu [[tia hồng ngoại|hồng ngoại]] sau này từ trên Trái Đất và những đo đạc của tàu vũ trụ ''Galileo'' cho thấy những dòng chảy đó là dung nham hợp chất bazan với thành phần mafic tới siêu mafic. Giả thuyết này dựa trên những đo đạc nhiệt độ tại các "điểm nóng" trên Io, hay tại các địa điểm phun trào nhiệt, cho thấy nhiệt độ ít nhất 1.300 K và một số nơi cao tới 1.600 K<ref name=Keszthelyi2007>{{chú thích tạp chí | last=Keszthelyi |first=L. |coauthors=''và ctv.'' |title=New Estimates for Io Eruption Temperatures: Implications for the Interior |journal=Icarus |volume= |issue= |pages= |date=2007 |url= |doi=10.1016/j.icarus.2007.07.008 | pages=491}}</ref>. Những ước tính ban đầu cho thấy nhiệt độ phun trào đạt tới 2.000 K<ref name=Mcewen1998/> đã bị chứng minh là sai lầm bởi các mô hình nhiệt không chính xác được sử dụng để đo nhiệt độ<ref name=
Sự khám phá các đám khói tại các núi lửa Pele và Loki là dấu hiệu đầu tiên cho thấy rằng Io có hoạt động địa chất<ref name=Morabito1979/>. Nói chung, những đám khói này được hình thành khi những chất dễ bay hơi như lưu huỳnh và điôxít lưu huỳnh bị các núi lửa trên Io phun lên trời ở tốc độ lên tới 1 km/s (0,6 dặm/s). Các vật liệu khác có thể có trong những đám khói núi lửa gồm natri, [[kali]], và [[clo]]<ref name=Roesler1999>{{chú thích tạp chí | last=Roesler |first=F. L. |coauthors=''và ctv.'' |title=Far-Ultraviolet Imaging Spectroscopy of Io's Atmosphere with HST/STIS |journal=[[Science]] |volume=283 |issue=5400 |pages=353–357 |date=1999 |url=http://www.sciencemag.org/cgi/content/full/283/5400/353?ijkey=2e836ace96ce3f47c37ce6a444fed5fd7b8f0dd8 |doi = }}</ref><ref name=Geissler1999>{{chú thích tạp chí | last=Geissler |first=P. E. |coauthors=''và ctv.'' |title=Galileo Imaging of Atmospheric Emissions from Io |journal=Science |volume=285 |issue=5429 |pages=448–461 |date=1999 |url=http://www.sciencemag.org/cgi/content/full/285/5429/870#RF4 |doi = }}</ref>. Những đám khói này có vẻ được hình thành theo một trong hai cách<ref name=McEwen1983>{{chú thích tạp chí | last=McEwen |first=A. S. |coauthors=Soderblom L. A. |title=Two classes of volcanic plume on Io |journal=Icarus |volume=58 |issue= |pages=197–226 |date=1983 |url= |doi = }}</ref>. Những đám khói lớn nhất trên Io đã được tạo ra khi khí lưu huỳnh và điôxít lưu huỳnh thoát ra khỏi macma đang phun trào tại các miệng núi lửa hay các hồ dung nham, thường kéo theo vật liệu silicat dung nham núi lửa với chúng. Những đám khói này hình thành nên các chất lắng đọng màu đỏ (từ lưu huỳnh chuỗi ngắn) và đen (từ silicat núi lửa) trên bề mặt. Khói được hình thành theo cách này là những đám khói lớn nhất phát hiện thấy trên Io, tạo thành những vòng tròn đỏ có đường kính hơn 1.000 km (620 dặm). Những ví dụ về kiểu khói này như tại các núi lửa Pele, Tvashtar và [[Dazhbog Patera|Dazhbog]]. Một kiểu khói khác được tạo thành khi các dòng dung nham làm bốc hơi lớp băng điôxít lưu huỳnh phía dưới, khiến lưu huỳnh thoát ra bay lên trời. Kiểu khói này thường hình thành những lắng đọng màu sáng, hình tròn gồm điôxít lưu huỳnh. Chúng thường chưa cao tới 100 km (62 dặm), và là những đám khói có thời gian tồn tại lâu nhất trên Io. Những ví dụ như tại các núi lửa Prometheus, Amirani và [[Masubi (núi lửa)|Masubi]].
Hàng 188 ⟶ 186:
Io có từ 100 tới 150 ngọn núi. Chúng có chiều cao trung bình 6 km (4 dặm) và độ cao tối đa 17,5 ± 1,5 km (10,9 ± 1 dặm) ở phía nam [[Boosaule Montes|Boösaule Montes]]<ref name=Schenk2001>{{chú thích tạp chí | last=Schenk |first=P. M. |coauthors=''và ctv.'' |title=The mountains of Io: Global and geological perspectives from Voyager and Galileo |journal=J. Geophys. Res. |volume=106 |issue= |pages=33201–33222 |date=2001 |url= |doi = }}</ref>. Các dãy núi thường có vẻ ngoài đồ sộ (một dãy núi trung bình dài 157 km), là những cấu trúc tách biệt và không có mô hình kiến tạo tổng thể rõ rệt bên ngoài như núi trên Trái Đất<ref name=Schenk2001/>. Để có thể đỡ được khối lượng địa hình đồ sộ như vậy các ngọn núi này phải có thành phần chủ yếu là đá silicat, chứ không phải là lưu huỳnh<ref name=Clow1980>{{chú thích tạp chí | last=Clow |first=G. D. |coauthors=Carr M. H. |title=Stability of sulfur slopes on Io |journal=Icarus |volume=44 |issue= |pages=729–733 |date=1980 |url= |doi = }}</ref>.
Dù những núi lửa hoạt động mạnh là nguyên nhân gây ra đặc trưng bề mặt của Io, gần như mọi ngọn núi ở đây là những kết cấu kiến tạo, chứ không phải do núi lửa. Thực tế, đa số núi trên Io được hình thành như kết quả của các ứng suất nén trên đáy của thạch quyển, làm chúng nâng lên và đôi khi làm nghiêng phần vỏ của Io thông qua quá trình tạo [[phay nghịch]]<ref name=SchenkBulmer1998>{{chú thích tạp chí | last=Schenk |first=P. M. |coauthors=Bulmer M. H. |title=Origin of mountains on Io by thrust faulting and large-scale mass movements |journal=Science |volume=279 |issue= |pages=1514–1517 |date=1998 |url= |doi = }}</ref>. Ứng suất nén dẫn tới sự hình thành núi là kết quả của sự sụp lún của các vật liệu núi lửa bị chôn vùi liên tục<ref name=
Những ngọn núi trên Io (nói chung là những cấu trúc mọc lên cao hơn các đồng bằng xung quanh) có nhiều hình thái. Thường thấy nhất là các [[cao nguyên]]<ref name=Schenk2001/>. Những cấu trúc này tương tự như những [[núi mặt bàn]] lớn, phẳng đỉnh và bề mặt gồ ghề. Những ngọn núi khác thường có vẻ là những khối lớp vỏ bị nghiêng, với một sườn thoải từ bề mặt phẳng trước kia và một sườn dốc gồm những vật liệu thuộc lớp dưới bề mặt trước kia bị đẩy lên bởi các ứng suất nén ép. Cả hai kiểu núi thường có vách đứng có độ dốc lớn dọc theo một hay nhiều bờ mép. Chỉ có một lượng nhỏ núi trên Io có vẻ là có nguồn gốc núi lửa. Những ngọn núi này giống với các [[núi lửa hình khiên]], với các sườn có độ dốc lớn (6–7°) gần một [[hõm chảo núi lửa]] nhỏ ở trung tâm và các sườn có độ dốc thấp dọc theo các bờ mép của chúng<ref name=Schenk2004>{{chú thích tạp chí | last=Schenk |first=P. M. |coauthors=''và ctv.'' |title=Shield volcano topography and the rheology of lava flows on Io |journal=Icarus |volume=169 |issue= |pages=98–110 |date=2004 |url= |doi = }}</ref>. Những ngọn núi nguồn gốc núi lửa này thường nhỏ hơn kích thước núi trung bình trên Io, thông thường cao khoảng 1 tới 2 km (0,6 tới 1,2 dặm) và rộng 40 tới 60 km (25 tới 37 dặm). Các núi lửa hình khiên khác với các sườn ít dốc hơn được suy ra từ hình thái của một vài núi lửa trên Io, nơi những dòng dung nham mỏng tỏa ra từ một vùng lõm trung tâm, như tại [[Ra Patera]]<ref name=
Gần như tất cả các ngọn núi đều có vẻ ở một thời kỳ thoái hoá nào đó. Những trầm lắng từ các vụ [[đất trượt|lở đất]] lớn là phổ biến tại chân các dãy núi trên Io, gợi ý rằng [[sạt lở hàng loạt]] là hình thức thoái hóa chính. Các rìa kiểu vỏ sò rất thường thấy trên các núi mặt bàn và các cao nguyên của Io, kết quả của sự rỉ ra của điôxít lưu huỳnh từ lớp vỏ Io, tạo ra các vùng yếu dọc theo các rìa núi.<ref name=Moore2001>{{chú thích tạp chí | last=Moore |first=J. M. |coauthors=''et al.'' |title=Landform degradation and slope processes on Io: The Galileo view |journal=J. Geophys. Res. |volume=106 |issue= |pages=33223–33240 |date=2001 |url= |doi = }}</ref>
Hàng 198 ⟶ 196:
Io có [[khí quyển (định hướng)|khí quyển]] rất mỏng gồm chủ yếu điôxít lưu huỳnh (SO<sub>2</sub>) với áp suất bằng một phần tỷ [[atmotphe]]<ref name=Pearl1979/>. Khí quyển mỏng của Io đồng nghĩa với việc hạ cánh của bất kỳ tàu thăm dò nào được gửi tới Io trong tương lai sẽ không cần phải được bảo vệ bằng lớp chắn chống nhiệt kiểu vỏ tàu vũ trụ, thay vào đó là các [[tên lửa đẩy lùi]] cho một cuộc [[hạ cánh]] mềm. Khí quyển mỏng cũng buộc tàu vũ trụ muốn hạ cánh phải có khả năng chịu được [[bức xạ điện từ|bức xạ]] mạnh của Sao Mộc, mà lớp khí quyển dày hơn có thể ngăn chặn bớt.
Bức xạ tương tự (ở hình thức [[Quyển từ|plasma]]) triệt tiêu khí quyển vì thế nó phải luôn luôn được bổ sung lại<ref name=IobookChap10>{{chú thích sách |last=Lellouch |first=E.; ''và ctv.'' |editor=Lopes R. M. C.; Spencer J. R. |title=Io after Galileo |year=2007 |publisher=Springer-Praxis |isbn=3-540-34681-3 |pages=pp. 231–264 |chapter=Io's atmosphere}}</ref>. Nguồn SO<sub>2</sub> lớn nhất là hoạt động núi lửa, nhưng khí quyển phần lớn được duy trì bởi sự thăng hoa SO<sub>2</sub> đóng băng trên bề mặt bởi ánh sáng Mặt Trời. Khí quyển dày hơn ở phía xích đạo, nơi bề mặt ấm nhất và có những đám khói núi lửa hoạt động mạnh nhất<ref name=Feldman2000>{{chú thích tạp chí | last=Feldman |first=P. D. |coauthors=''và ctv.'' |title=Lyman-α imaging of the {{chem|SO|2}} distribution on Io |journal=Geophys. Res. Lett. |volume=27 |issue= |pages=1787–1790 |date=1979 |url= |doi = }}</ref>. Các biến thiên khác cũng tồn tại, với những biến thiên với mật độ cao nhất gần các miệng núi lửa (đặc biệt tại các địa điểm khói núi lửa) và trên nửa bề mặt ngược Sao Mộc của Io, nơi băng {{chem|SO|2}} hiện diện nhiều nhất)<ref name=
Những hình ảnh độ phân giải cao về Io đã được chụp khi vệ tinh này trải qua một lần thực cho thấy một lớp sáng kiểu [[cực quang]]. Tương tự như trên Trái Đất, điều này bởi bức xạ va vào khí quyển. Cực quang thường xảy ra gần các cực từ của các hành tinh, nhưng tại Io thì cực quang lại sáng nhất ở địa điểm gần xích đạo. Io không có từ trường của riêng mình; vì thế, các electron bay theo từ trường Sao Mộc gần Io va chạm trực tiếp với khí quyển của vệ tinh. Càng có nhiều electron va chạm với khí quyển, cực quang càng sáng, nơi các đường từ trường tiếp giáp với vệ tinh (ví dụ, gần xích đạo), bởi cột khí chúng đi qua dày hơn ở đó. Cực quang đi liền với những điểm tiếp giáp đó trên Io được quan sát có "nhảy múa" với sự thay đổi hướng của độ nghiêng từ trường lưỡng cực của Sao Mộc<ref name=Retherford2000>{{chú thích tạp chí | last=Retherford |first=K. D. |coauthors=''và ctv.'' |title=Io's Equatorial Spots: Morphology of Neutral UV Emissions |journal=J. Geophys. Res. |volume=105 |issue=A12 |pages=27,157–27,165 |date=2000 |url=http://www.agu.org/journals/ja/ja0012/2000JA002500/pdf/2000JA002500.pdf |format=PDF| doi = }}</ref>.
Hàng 243 ⟶ 241:
[[Thể loại:Bài viết thiên văn chọn lọc]]
[[Thể loại:Thiên thể phát hiện năm 1610]]
|