Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Heavy metal”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Thrash metal: AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:34.2640000
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 34:
Bản chất của trống trong metal là tạo ra một nhịp to, đều cho ban nhạc sử dụng "bộ ba tốc độ, sức mạnh, và chính xác".<ref>Dawson, Michael. [http://www.moderndrummer.com/updatefull/200001503 "Chris Adler: More Than Meets The Eye"] ''Modern Drummer Online''. Truy cập 13 tháng 11 năm 2007.</ref> Chơi trống trong metal "cần một độ dẻo dai phi thường", và các tay trống cần phải có "tốc độ, khả năng phối hợp, độ khéo léo … tương đối lớn để chơi những đoạn phức tạp" trong metal.<ref name="Berry">Berry and Gianni (2003), p. 85</ref> Một kỹ thuật chơi trống tiêu biểu của metal là [[kẹp chũm chọe]] (''cymbal choke''), là kỹ thuật đập vào [[chũm chọe]] và ngay lập tức giữ nó lại bằng tay kia (hoặc dùng chính tay đập trong một số trường hợp) tạo ra một âm bật lớn. Dàn trống của metal thường lớn hơn nhiều so với những dàn trống được dùng trong các dòng nhạc rock khác.<ref name="W24"/>
 
Khi biểu diễn nhạc sống, sự [[ầm ĩ]] – sự "công kích của âm thanh", theo sự mô tả của nhà xã hội học Deena Weinstein – được coi là yếu tố sống còn..<ref name="W23>Weinstein (2000), p. 23<"/ref> Trong cuốn sách Metalheads của mình, nhà tâm lý học Jeffery Arnett nhắc tới buổi trình diễn heavy metal như một "cảm quan tương đương của chiến tranh".<ref>Arnett (1996), p. 14</ref> Tiếp nối sự dẫn dắt của [[Jimi Hendrix]], [[Cream]] và [[The Who]], những ban nhạc heavy metal đầu như [[Blue Cheer]] đã đặt ra một ngưỡng âm lượng mới. Như [[Dick Peterson]] của Blue Cheer đã nói "Tất cả những gì chúng ta biết là chúng ta cần nhiều sức mạnh hơn".<ref name = "vdqxbw">Walser (1993), p. 9</ref> Một bài báo năm 1977 về buổi biểu diễn của Motorhead đã viết về cách mà "chỉ riêng âm lượng cực lớn đã thể hiện được tác động của ban nhạc".<ref>Paul Sutcliffe quoted in Waksman, Steve. [http://www.echo.ucla.edu/volume6-issue2/waksman/waksman3.html "Metal, Punk, and Motörhead: Generic Crossover in the Heart of the Punk Explosion".] ''Echo: A Music-Centered Journal'' 6.2 (Fall 2004). Truy cập 15 tháng 11 năm 2007</ref> Weinstein đưa ra so sánh: trong khi [[giai điệu]] là yếu tố chính của [[pop|nhạc pop]] và nhịp điệu là trọng tâm của [[techno#House|nhạc house]], thì âm thanh đầy sức mạnh, âm sắc, và âm lượng là yếu tố then chốt của metal. Bà lý luận rằng sự ầm ĩ được thiết kế ra để "quét người nghe vào trong làn âm thanh" và để tạo ra một "liều thuốc của sức trẻ".<ref name="W23>Weinstein (2000), p. 23<"/ref>
 
=== Ngôn ngữ âm nhạc ===
Dòng 42:
Nhịp điệu trong các ca khúc metal rất rõ ràng, với những chỗ nhấn có tính toán. Weinstein quan sát thấy rằng mảng hiệu ứng âm thanh lớn dành cho các tay trống đã cho phép "khuôn nhịp có thể trở nên ngày một phức tạp với xu hướng và nhu cầu mạnh mẽ của nó."<ref name="W24"/> Trong rất nhiều bài heavy metal, mạch chủ đạo được đặc trưng bởi những đoạn nhịp 2 nốt hoặc 3 nốt ngắn – thường được tạo nên bởi [[nốt 8]] hoặc [[nốt 16]]. Những đoạn nhịp này thường được biểu diễn bằng một [[đoạn ngắt âm]] tạo ra bằng cách sử dụng kỹ thuật [[tay-câm]] (palm-muted) trên ghita nhịp.<ref>"Master of Rhythm: The Importance of Tone and Right-hand Technique," ''Guitar Legends'', tháng 4 năm 1997, p. 99</ref>
[[Tập tin:Heavy rythmic pattern.jpg|500px|nhỏ| Ví dụ về một khuôn nhịp được sử dụng trong heavy metal.]]
Ngắn gọn, bất ngờ, và những bước nhịp tách biệt được gom lại tạo thành tiết nhịp với một kết cấu riêng biệt, thường là giật cục. Những tiết nhạc này được dùng để tạo ra xướng nhịp và giai điệu gọi là [[riff]], giúp tạo ra các [[móc (âm nhạc)|móc]] (hook) liên quan. Các bài hát heavy metal cũng sử dụng những đoạn nhịp dài hơn như những hợp âm [[nốt tròn]], hoặc nốt đen trong các bài [[power ballad]] chậm. Nhịp độ của heavy metal thời kỳ đầu có chiều hướng "chậm, thậm chí nặng nề".<ref name="W24"/> Tuy nhiên, đến cuối thập niên 70 các ban nhạc metal chơi với nhiều nhịp độ khác nhau. Trong những năm 2000, nhịp độ của metal được xếp theo thứ tự từ ballad chậm (nốt đen = 60 [[phách/phút]]) đến [[phách gió]] siêu nhanh (nốt đen = 350 phách/phút).<ref name="Berry>Berry and Gianni (2003), p. 85<"/ref>
 
==== Giai điệu ====
Dòng 78:
{{Xem thêm|Thrash metal}}
[[Tập tin:Slayer, The Fields of Rock, 2007.jpg|nhỏ|trái|250px| Nhóm thrash [[Slayer]] biểu diễn năm 2007]]
Dòng thrash metal bắt đầu xuất hiện vào những năm đầu thập kỉ 80, chịu ảnh hưởng trực tiếp của dòng nhạc [[hardcore punk]] và trào lưu nhạc heavy metal mới của nước Anh<ref name="GTM">[http://www.allmusic.com/explore/style/d373 "Genre—Thrash Metal"]. Allmusic. Truy cập 3 tháng 3, 2007.</ref> đặc biệt là các bản nhạc sử dụng phong cách tăng tốc gọi là [[speed metal]]. Phong trào thrash metal bắt đầu tại Mĩ, với đầu tàu là các buổi biểu diễn của một số band tại Bay Area, [[California]]. Âm nhạc của các nhóm thrash có đặc điểm là mạnh mẽ và dữ dội hơn dòng nhạc metal gốc cũng như dòng [[glam rock]] xuất hiện sau nó.<ref name=GTM>[{{Allmusic|class=style|id=speed-thrash-metal-ma0000002874|pure_url=yes}} "Genre—Thrash MetalGTM"]. Allmusic. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.</ref> Những cú riff ghitar với quãng âm thấp thường làm nền cho guitar lead sử dụng kĩ thuật lướt nhanh (shredding). Lời hát thường thể hiện quan điểm của chủ nghĩa hư vô hoặc đề cập tới các vấn đề xã hội với ngôn từ đẫm máu và đầy nội tâm. Thrash metal được mô tả như một dạng ‘’nhạc tai họa của đô thị’’ hay ‘’một người anh em họ xanh xao của rap’’
 
Dòng thrash metal được phổ biến rộng rãi tới người nghe bởi 4 nhóm thrash lớn (Big Four): [[Metallica]], [[Anthrax]], [[Megadeth]] và [[Slayer]].<ref>Walser (1993), p.14</ref> 3 nhóm thrash đến từ nước Đức [[Kreator]], [[Sodom]], and [[Destruction]] đóng góp quan trọng vào sự phát triển của thrash tại châu Âu. Ngoài ra có thể kể đến đóng góp của các nhóm nhạc đến từ các buổi biểu diễn tại Bay Area là [[Testament]] và [[Exodus]], nhóm nhạc New Jersey [[Overkill]], và nhóm [[Sepultura]] của Brazil. Bắt đầu từ một trào lưu âm nhạc ngầm tồn tại tới gần 1 thập kỉ, thrash đã dần dần tiếp cận được một lớp công chúng đông đảo hơn nhờ vào sự phát triển của một số nhóm như Metallica, Megadeth.. Năm 1986, album ''[[Master of Puppets]]'' của Metallica lọt vào top 40 bảng xếp hạng album ''Billboard'', 2 năm sau, đến lượt album [[...And Justice for All]] đứng thứ 6 tại bảng xếp hạng này. Megadeth và Anthrax cũng có những bản rock lọt vào top 40.<ref>[http://web.archive.org/20070929225341/www.billboard.com/bbcom/retrieve_chart_history.do?model.chartFormatGroupName=Albums&model.vnuArtistId=5199&model.vnuAlbumId=758988 "Metallica—Artist Chart History"]; [http://web.archive.org/20070929144156/www.billboard.com/bbcom/retrieve_chart_history.do?model.chartFormatGroupName=Albums&model.vnuArtistId=5179&model.vnuAlbumId=933608 "Megadeth—Artist Chart History"]; [http://web.archive.org/20070929204614/www.billboard.com/bbcom/retrieve_chart_history.do?model.chartFormatGroupName=Albums&model.vnuArtistId=3982&model.vnuAlbumId=728383 "Anthrax—Artist Chart History"]. Billboard.com. Truy cập 7 tháng 4, 2007.</ref>
Mặc dù không thành công trên thị trường bằng các band khác trong nhóm bộ tứ, Slayer đã cho ra đời những bản thrash mang tính định hình cho thể loại nhạc trong album ''[[Reign in Blood]]'' (1986). Album này đã được mệnh danh là ‘’album nặng nhất mọi thời đại’’<ref name="Lostprophets scoop rock honours">{{chú thích web| title = Lostprophets scoop rock honours | publisher = BBC News | date = ngày 2006-08-25 tháng 8 năm 2006 | url = http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/5282780.stm| accessdate = ngày 2007-01-10 tháng 1 năm 2007}}</ref> 2 thập kỉ sau, ''[[Metal Hammer]]'' gọi nó là album tuyệt vời nhất trong 20 năm trở lại đây<ref name="Golden Gods Awards Winners">{{chú thích web| title = Golden Gods Awards Winners| publisher = Metal Hammer| date = ngày 2006-06-13 tháng 6 năm 2006 | url = http://www.metalhammer.co.uk/news/?id=44410| accessdate = ngày 2007-01-10 tháng 1 năm 2007}}</ref> Trong số khán giả của Slayer có cả những phần tử phát xít mới cực hữu, và người ta vẫn luôn buộc tội Slayer vì việc truyền bá bạo lực và tư tưởng phát xít <ref>Moynihan, Søderlind (1998), p. 30; O'Neil (2001), p. 164</ref> Đầu thập niên 90, thrash đã có được những thành công vượt bậc, thách thức và định nghĩa lại dòng metal chính thống <ref>Walser (1993), p. 15</ref> Album cùng tên của Metallica năm 1991 đã chiếm ngôi đầu bảng xếp hạng <ref>[http://www.billboard.com/#/charts/billboard-200?chartDate=1991-08-31 Billboard 200, chart date: 1991-08-31]</ref>, album ''[[Countdown to Extinction]]'' của Megadeth năm 1992 đứng vị trí thứ 2<ref>[http://www.billboard.com/#/charts/billboard-200?chartDate=1992-08-01 Billboard 200, chart date: 1992-08-01]</ref>, Anthrax và Slayer lọt vào top 10<ref>[http://www.billboard.com/#/charts/billboard-200?chartDate=1993-06-12 Billboard 200, chart date: 1993-06-12]; [http://www.billboard.com/#/charts/billboard-200?chartDate=1994-10-15 Billboard 200, chart date: 1994-10-15]</ref>, và album của những nhóm như Testament và Sepultura cũng lọt vào top 100.<ref>[http://www.billboard.com/#/album/testament/ritual/50471 Billboard 200 Chart Position: Testament – ''Ritual'', chart date: 1992-05-30]; [http://www.billboard.com/#/album/sepultura/chaos-a-d/147266 Billboard 200 Chart Position: Sepultura – ''Chaos A.D.'', chart date: 1993-11-06]</ref>
 
==== Death metal ====
Dòng 111:
[[Thể loại:Kiểu nhạc Mỹ]]
[[Thể loại:Âm nhạc châu Âu]]
[[Thể loại:Thể loại âm nhạc Vương quốc Liên hiệp Anh]]