Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Vĩnh Phúc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 25:
 
==Thời kỳ hoạt động ở Việt Nam==
Lưu Vĩnh Phúc vừa đi vừa tuyển thêm quân từ các toán thổ phỉ khác mà không bị ai chặn lại hay ngăn trở gì. Đến gần Sơn Tây, [[Quân Cờ Đen|Quânquân cờCờ đen]] khi đó đã lên tới 500 người dừng lại lập doanh trại. Sự hiện diện của một đội quân vũ trang trong lãnh thổ của các bộ tộc [[H'Mông|Mông]] miền núi là một sự đe dọa với họ, nên xung đột vũ trang đã nổ ra. [[Quân Cờ Đen|Quân Cờ đen]] phục kích và đánh bại cuộc tấn công của thổ dân, đồng thời giết chết một thủ lĩnh của họ<ref>Đây có lẽ là cuộc xung đột với quân Bạch Miêu, tức [[quân Cờ trắng]] của Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi, chiếm cứ vùng Lục Yên ([[Tuyên Quang]])</ref>. Viên thủ lĩnh này chống đối chính quyền [[nhà Nguyễn]], nên nhân cơ hội đó nhà Nguyễn chính thức ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức vị ''Cửu phẩm bách hộ'' để tiếp tục công việc bình định vùng này.
 
Tuy vậy, đánh nhau với người thiểu số không phải là mối quan tâm chính của Lưu Vĩnh Phúc, nên năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc quay ra tranh giành khu vực thị trấn [[Lào Cai]], tức châu Bảo Thắng, một món mồi béo bở, lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương gia có vũ trang người Quảng Đông. [[Quân Cờ Đen|Quân Cờ đen]] tự tiện thu thuế, khai khoáng, cướp bóc khắp nơi, quan quân nhà Nguyễn cũng không ngăn cản được.
 
Nhận được tin về những thắng lợi dễ dàng của Lưu Vĩnh Phúc, những toán quân còn lại của Ngô Vương, lúc này đang bị quân Thanh dồn ép về gần biên giới, theo [[Hoàng Sùng Anh]] (Huang Ch'ung-ying, cháu Ngô Vương) lập thành [[quân Cờ vàng]], tràn qua biên giới chiếm thị trấn [[Hà Giang]] nằm trên bờ [[sông Lô]]. Quân Cờ vàng được tổ chức theo mô hình [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]], nhưng với số lượng đông hơn gấp hai, ba lần. Tuy nhiên Hà Giang không phải là một nơi có thể đem lại nhiều lợi nhuận như Lào Cai, nên xung đột giành quyền lợi giữa hai nhóm Cờ đen và Cờ vàng bùng nổ.
 
Năm 1869, [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] phục kích đánh tan tác quân Cờ vàng tại Lào Cai, rồi truy quét Cờ vàng đến tận hang ổ tại Hà Giang. Phối hợp với [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] là quân nhà Nguyễn và quân Thanh của tướng Phùng Tử Tài, quân Cờ vàng phải tháo chạy khỏi căn cứ Hà Giang. Tuy nhiên, do dịch bệnh và khí hậu khắc nghiệt nên quân Thanh phải rút về, quân Cờ vàng tiếp tục kiểm soát một vùng rộng lớn ở khoảng giữa sông Hồng đến biên giới, từ Lào Cai đến [[Sơn Tây]]. Đến năm 1875, [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] mở chiến dịch quyết định đánh chiếm Hà Giang, phối hợp với họ không những là quân nhà Nguyễn mà cả quân Thanh từ Quảng Tây và [[Vân Nam]]. Hoàng Sùng Anh bị truy đuổi, bị bộ hạ làm phản, bị bắt rồi bị giết chết.
 
Do chiến thắng quân Cờ vàng mà [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] của Lưu Vĩnh Phúc chính thức được chính quyền nhà Thanh bảo trợ, ngược lại Lưu Vĩnh Phúc cũng xóa bỏ mặc cảm khi trước, hạ lệnh cho thủ hạ dóc tóc kiểu [[Mãn Châu]] để tỏ lòng trung thành với nhà Thanh. Về phần nhà Nguyễn, mặc dù sử dụng Lưu Vĩnh Phúc nhưng triều đình Huế vẫn còn nghi ngờ về lòng trung thành của Lưu và quân[[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]]. Vì vậy, năm 1873, [[Hoàng Kế Viêm|Hoàng Tá Viêm]] xin phong cho Lưu chức Phòng ngự sứ nhưng vua [[Tự Đức]] không đồng ý.
 
==Giết chết đại úy hải quân Francis Garnier==
Dòng 44:
Triều đình Huế hết sức tức giận vì hành vi tráo trở này, lệnh cho đoàn sứ Đại Nam đang thương nghị ở [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] phản kháng hành động chiếm thành của F.Garnier, yêu cầu thống đốc Dupré ra lệnh cho Garnier rút quân khỏi thành Hà Nội, đồng thời sai chưởng vệ Phan Đề làm đề đốc, Nguyễn Trọng Hợp làm tán lý cùng với Bùi Ấn Niên làm Khâm phái đưa 1.000 quân từ Huế và [[Nghệ An]] ra Bắc tăng cường chống trả quân Pháp. Triều định ra lệnh cho các quan tỉnh ở các khu vực trọng yếu phải đóng cọc xuống các lòng sông thông với sông Hồng để ngăn chận tàu Pháp. Vua Tự Đức cũng sai Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cùng với 2 giáo sĩ [[Công giáo]] là giám mục Sovier, linh mục Danzelger ra Hà Nội điều đình với Garnier. Các khâm phái, khâm mạng, các quan cũ ở Hà Nội đều bị cách chức chờ xử phạt.
 
Ngoài ra triều đình Huế cũng phong cho [[phò mã]] [[Hoàng Kế Viêm]] làm Tiết chế Bắc kỳ quân vụ, chuẩn bị hành động trả đũa. Hoàng Kế Viêm là chỉ huy cao cấp nhất của các lực lượng quân Nam tại Bắc Kỳ, và cũng cấp trên trực tiếp của Lưu Vĩnh Phúc, nên ông cho gọi Lưu Vĩnh Phúc, khi đó đang đóng tại [[Hưng Hóa (định hướng)|Hưng Hóa]] về [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]] làm tiền phong để đánh quân Pháp. Hoàng Kế Viêm vì biết được sự hoang mang tinh thần của quân Nam, nên khích lệ [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] bằng cách hứa hẹn thưởng rất nhiều vàng cho mỗi binh lính Pháp bị giết, số lượng vàng sẽ tăng lên theo cấp bậc của kẻ bị giết.
 
[[Tập tin:Citadellehanoi3.jpg|nhỏ|360px|phải|Quân Pháp của Francis Garnier đổ bộ đánh chiếm Hà Nội]]
Ngày 18 tháng 12 năm 1873, [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] đã về đến Hà Nội và lập trại chỉ cách Hà Nội chừng 10 đến 12 dặm. Ngày 21 tháng 12, nghe tin [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] đang tiến về cửa tây thành Hà Nội, Garnier tức khắc lên mặt thành cho pháo khai hỏa về phía đối phương. Sau nửa giờ bắn phá, quân Nam, gồm chừng năm, sáu trăm [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] và rất nhiều quân Việt, có voi chiến và nhiều quan lại đi theo, phải rút chạy. Garnier nhanh chóng tiến ra từ cửa đông nam với 18 lính Pháp và chừng một trung đội lính mộ bản xứ truy đuổi. Tuy nhiên chưa đi khỏi thành được bao xa thì khẩu pháo dã chiến bị sa lầy, Garnier bị một toán [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] mai phục sẵn đổ ra đâm chết, tại [[Cầu Giấy|Ô Cầu Giấy]].
 
Garnier bị giết, quân Pháp ở thành Hà Nội lâm vào tình thế hoảng loạn, nếu không nhờ có Linh mục Puginier và Dupuis thì quân Pháp đã bỏ thành theo đường thủy chạy về Sài Gòn. Tuy nhiên cái chết của đại úy Garnier cũng đặt dấu chấm hết cho cuộc phiêu lưu quân sự này tại Bắc Kỳ. Dẫu vậy, cũng chỉ hơn một tháng sau, đại úy Philastre (tên phiên âm: Hoắc Đạo Sanh), một người học [[chữ Hán|chữ Nho]], công bằng và có tiếng rất thiện chí với phía Việt Nam, được cử ra giải quyết những rắc rối tại Bắc Kỳ đã cho rút hết quân khỏi Hà Nội và trao trả lại Bắc kỳ cho triều đình nhà Nguyễn.
Dòng 54:
Sau chiến thắng này, Lưu Vĩnh Phúc được thăng lên làm Phó Lãnh binh, chịu sự thống suất của Hoàng Tá Viêm. Các thuộc hạ của Lưu Vĩnh Phúc đều được thưởng quan tước và tiền bạc. Hoàng Tá Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc đưa quân rút về chặn ở miền thượng du (Lào Cai), được triều đình Huế cho quyền trông coi việc thông thương và thu thuế ở vùng sông Lô và [[sông Thao]] từ [[Tuyên Quang]] trở xuống. Tới tháng 10 năm Giáp Tuất (1874), theo lời xin của Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc được thăng chức quyền Tam Tuyên quân vụ đề đốc tước vị nam, kiêm coi các đạo và được sai phái đi đánh giặc Cờ Vàng.
 
Triều đình Huế đã tỏ ra rất trọng dụng Lưu Vĩnh Phúc nhưng ông ta vẫn chưa hài lòng. Sáu lần triều đình điều động Lưu Vĩnh Phúc đem quân về Tuyên Quang nhưng ông ta lần lữa không đi, vẫn ở lại Bảo Thắng. Do quan quân nhà Nguyễn bất lực như chính Tự Đức phải thừa nhận: ''Việc dẹp giặc ở Tuyên Quang lấy đạo Lưu Vĩnh Phúc là chính'', nên mặc dù tỏ thái độ bất phụng mệnh, Lưu Vĩnh Phúc và quân[[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] trước sau vẫn được nhà Nguyễn để tâm dùng. Nắm được điểm yếu ấy của triều đình Huế, Lưu Vĩnh Phúc luôn ra điều kiện mặc cả về mức ban thưởng quan tước và tiền bạc cho mình và bộ thuộc sau mỗi trận đánh, thậm chí cả việc xin truy phong quan tước cho cha mẹ mình.
 
Mùa đông năm 1881-1882, Lưu Vĩnh Phúc lần đầu tiên trở lại Trung Quốc thăm viếng quê nhà. Khi đi ông ta là một kẻ tội phạm bị truy nã, khi về ông được đón tiếp long trọng như một anh hùng, không những là quan nhà Nguyễn mà còn mang phẩm hàm võ quan của nhà Thanh. Lưu Vĩnh Phúc mua đất đai ở làng cũ, dự định đến một ngày nào đó sẽ về dưỡng già, nhưng các biến động tại Bắc kỳ liên tiếp diễn ra, và Lưu Vĩnh Phúc lại được triệu tập trở lại Bắc kỳ.
Dòng 61:
{{chính|Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai}}
[[Tập tin:CitadelleHanoi2.jpg|360px|nhỏ|phải|Quân Pháp tấn công thành Hà Nội]]
Ngày 26 tháng 3 năm 1882, Rivière trên hai thuyền chiến, rời Sài Gòn ra bắc cùng 230 lính, để tăng cường cho đồn binh đóng ở trên sông Hồng. Nhiệm vụ của ông theo mệnh lệnh là giải quyết tranh chấp giữa các thương gia Pháp và chính quyền sở tại, và trừng trị những đám quân ''thổ phỉ'' như [[Quân Cờ Đen|quân cờCờ đen]]. Tuy nhiên, chủ đích của Rivière lại là chinh phục miền Bắc Kỳ, chứ không phải giải quyết tranh chấp giữa người Pháp và Việt.
 
Ngày 24 tháng 4, sau khi nhận được 250 quân Pháp từ miền Nam đến tiếp viện, Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc [[Hoàng Diệu]], đòi giao nộp thành ngay lập tức. Khi Hoàng Diệu còn chưa kịp trả lời, thì pháo thuyền của quân Pháp đã nổ súng bắn vào thành<ref>Việc đánh thành Hà Nội là tự ý Rivière, chứ không nằm trong kế hoạch của Le Myre de Vilers</ref>.
Dòng 76:
{{chính|Trận Cầu Giấy}}
[[Tập tin:Caugiay1884-85.jpg|nhỏ|phải|360px|Cầu Giấy khoảng năm 1884 - 1885]]
Rivière trong khi đó ở Hà Nội đang tích cực chuẩn bị để đánh thành Sơn Tây, thấy quân Nam chuẩn bị tiến công, liền truyền lệnh tiến quân lên đánh phủ Hoài Đức. Ngày 19 tháng 5, khi Rivière dẫn 500 quân ra đến [[Cầu Giấy]] thì [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] ùn ùn đổ ra từ khắp các làng xung quanh để cắt đứt hậu quân Pháp. Bị vây đánh, quân Pháp co cụm lại, nên càng dễ dàng trở thành bia cho quân Cờ đen bắn. Một khẩu pháo dã chiến của Pháp bị rơi vào tay [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]] sau khi số pháo thủ bị giết chết. Rivière dẫn một toán quân xông ra để chiếm lại khẩu pháo, rồi trong lúc hỗn loạn bị trúng vài viên đạn ngã xuống. Quân Pháp bị mất chỉ huy, trở nên hoảng loạn, rút chạy về Hà Nội. Ngoài Rivière, quân Pháp còn có 50 người bị giết và 76 người bị thương, trong đó chỉ huy phó của Rivière, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.
 
Quân Cờ đen cắt đầu Rivière và những lính Pháp bị giết, bêu trên cọc đem khoe ở các làng xung quanh. Xác Rivière bị chôn ở dưới đường, để người qua lại dẫm lên để tỏ lòng khinh bỉ. Đến tháng 9 năm đó Giám mục Pugnier mới thu thập lại được hài cốt Rivière để đưa về Pháp chôn cất.
 
Được tin đại tá Henri Rivière chết, Thống đốc Thomson ở Sài Gòn liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris, Hạ nghị viện còn đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo ở Sài Gòn về, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu rưởi [[franc]] để chi tiêu về việc binh phí. Thiếu tướng [[lục quân]] Bouet ở Nam Kỳ được phái ra làm ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, Hải quân thiếu tướng Courbet được lệnh đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng, ông Harmand là sứ thần Pháp ở [[Thái Lan|Xiêm]] được cử ra làm toàn quyền. Ngày mồng 3 tháng 5, thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến [[Hải Phòng]] và ngay lập tức chuẩn bị phòng ngự ở Hà Nội và Nam Định, đồng thời cho Georges Vlavianos (tên phiên âm: ông Kiều) là người theo Dupuis ngày trước, được phép mộ lính Cờ vàng làm tiền quân. [[Chiến tranh Pháp-Thanh]] mở màn.
 
==Tham gia chiến tranh Pháp-Thanh==
Dòng 92:
 
==Trở về Trung Quốc==
Sau khi [[chiến tranh Pháp-Thanh]] (1884-1885) tại miền bắc Việt Nam kết thúc Lưu Vĩnh Phúc phụng mệnh vua [[Quang Tự]] trở về Trung Quốc, bị ép phải giải tán quân[[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]]. Tại [[Quảng Châu]] được giao làm tổng binh. Tại đây ông thường cùng [[Hoàng Phi Hồng]] tập luyện võ thuật. Năm 1894, khi xảy ra cuộc [[chiến tranh Thanh-Nhật|chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất]] (Giáp Ngọ chiến tranh) được nhà Thanh phái tới [[Đài Loan]] làm tổng binh. Năm 1895, sau khi nhà Thanh ký [[hòa ước Mã Quan]] (hòa ước Shimonoseki) thì nhân dân Đài Loan không cam chịu sự thống trị của người [[Nhật Bản|Nhật]] đã tổ chức kháng chiến và thành lập ra nhà nước [[Đài Loan Dân chủ|Đài Loan dân chủ]], Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức đại tướng quân. Sau đó lực lượng của ông bị vây hãm tại [[Đài Bắc]] nhưng nhất mực kiên trì kháng cự, dẫn tới [[Chiếm đóng Đài Loan của người Nhật|chiến tranh Ất Mùi]] (1895). Tổng thống Đài Loan dân chủ là [[Đường Cảnh Tung]] cùng thống lĩnh [[Khâu Phùng Giáp]] bỏ trốn tới [[Hạ Môn]] để vào đại lục, Lưu Vĩnh Phúc tại Đài Nam tái lập nhà nước Đài Loan dân chủ, dân chúng Đài Loan yêu cầu con dấu tổng thống giao lại cho Lưu Vĩnh Phúc, nhưng Lưu Vĩnh Phúc không nhận mà chỉ xưng là bang biện, nhưng vẫn có thể coi là người lãnh đạo cao nhất của nhà nước non trẻ này. Người Đài Nam thành lập [[quốc hội|nghị hội]], phát hành [[tiền tệ]], dự trù quân lương, cầu viện tới [[Trương Chi Động]]. Sau đó Lưu Vĩnh Phúc cấp báo về đại lục để xin trợ giúp, nhưng không nhận được kết quả nào. Lưu Vĩnh Phúc sau đó muốn đàm phán với quân Nhật nhưng cũng không thành. Sau cùng, bị quân Nhật bao vây tại [[Đài Nam]], ngày [[21 tháng 10]] năm 1895, Lưu Vĩnh Phúc phải cải trang để bỏ trốn từ [[An Bình, Đài Nam|An Bình]] vào đại lục. Quân dân Đài Loan không còn người chỉ huy, buộc phải nhờ một [[mục sư]] người Anh là [[Reverend Thomas Barclay]] đàm phán hòa bình với quân đội Nhật Bản.
 
Năm [[Quang Tự]] thứ 28 ([[1902]]), Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức tứ thạch trấn tổng binh tại [[Quảng Đông]]. Sau [[cách mạng Tân Hợi]] ([[1911]]), giữ chức tổng trưởng dân đoàn Quảng Đông. Năm [[1915]], chính quyền [[Nhật Bản]] yêu cầu [[Viên Thế Khải]] chấp nhận [[hai mươi mốt yêu sách]], Lưu Vĩnh Phúc là một trong những người chủ chiến. Tháng 1 năm [[1917]], ông mắc bệnh mà chết.
 
==Nhận định==
Đương thời, quân Cờ đen tuy đánh được Pháp một số trận, nhưng cũng nhũng nhiễu tàn hại dân. Lúc bấy giờ [[Ông Ích Khiêm]] là một trong số những quan lại không hài lòng về việc thuê [[Quân Cờ Đen|quân Cờ đen]], đồng thời cũng chê trách các quan võ bất lực, lúc hữu sự phải nhờ vào người Tàu để đánh giặc. Ông có làm bài thơ trách<ref>Sách Hương Giang cố sự, truyện Ông Ích Khiêm</ref>
: ''Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu''
: ''Đến khi có giặc phải thuê Tàu''