Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ung thư đại trực tràng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TCCB123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
TCCB123 (thảo luận | đóng góp)
Gửi anh Trần Lập, mong anh mau khỏe
Dòng 18:
 
Hầu hết các nguyên nhân gây bệnh ung thư ruột là do các yếu tố về lối sống và độ tuổi, với chỉ một số ít trường hợp là do rối loạn [[gen]] di truyền.<ref name=WCR2014>{{chú thích sách|title=World Cancer Report 2014|date=2014|publisher=World Health Organization|isbn=9283204298|pages=Chapter 5.5}}</ref><ref name=NCI2014Pre>{{chú thích web|title=Colorectal Cancer Prevention (PDQ®)|url=http://www.cancer.gov/cancertopics/pdq/prevention/colorectal/HealthProfessional/page1/AllPages|website=National Cancer Institute|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2014|date = ngày 27 tháng 2 năm 2014}}</ref> Các yếu tố nguy cơ bao gồm chế độ ăn, bệnh [[béo phì]], [[hút thuốc]], và ít [[Thể dục|hoạt động thể chất]].<ref name="WCR2014"/><ref name="NCI2014Pre"/> Những yếu tố về [[chế độ ăn]] làm tăng nguy cơ bao gồm [[thịt đỏ]], thịt đã qua xử lý để giữ được lâu, và rượu.<ref name="WCR2014"/> Một yếu tố nguy cơ là [[bệnh viêm đường ruột]], trong đó bao gồm [[bệnh Crohn]] và [[viêm loét đại tràng]].<ref name="WCR2014"/> Một số điều kiện di truyền có thể gây ra ung thư ruột bao gồm: [[đa polyp tuyến gia đình]] (familial adenomatous polyposis - FAP) và ung thư đại trực tràng di truyền không đa polyp (hereditary nonpolyposis colorectal cancer - HNPCC), tuy nhiên, các ca bệnh này ít hơn 5% tổng các trường hợp.<ref name="WCR2014"/><ref name="NCI2014Pre"/> Ung thư ruột thường bắt đầu bằng một [[khối u lành tính]], thường dưới hình thức là một [[polyp]], lâu dần nó sẽ trở thành ung thư.<ref name="WCR2014"/>
==Phòng bệnh==
===Phòng ngừa===
Hầu hết các bệnh ung thư đại trực tràng là có thể ngăn, qua giám sát và lối sống thay đổi tăng lên.
 
===Lối sống===
Những chế độ hiện hành để ngăn ngừa ung thư đại trực tràng bao gồm tăng mức tiêu thụ ngũ cốc, trái cây và rau quả, và giảm mức tiêu thụ thịt đỏ. [59] [60] Các bằng chứng cho chất xơ và các loại trái cây và rau quả tuy nhiên là người nghèo. [60] Tập thể dục được liên kết với một giảm khiêm tốn trong đại tràng nhưng nguy cơ ung thư trực tràng không. [61] [62] Ngồi thường xuyên trong thời gian dài có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao do bệnh ung thư ruột kết. Nguy cơ sẽ không phủ nhận bởi tập thể dục thường xuyên, mặc dù nó được hạ xuống. [63]
 
===Thuốc===
Aspirin và celecoxib xuất hiện để làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng ở những người có nguy cơ cao. [64] Tuy nhiên, nó không được khuyến cáo ở những người có nguy cơ trung bình. [65] Có bằng chứng dự kiến ​​để bổ sung canxi nhưng nó không đủ để thực hiện một giới thiệu. [66] lượng Vitamin D và máu cấp có liên quan với giảm nguy cơ ung thư ruột kết. [67] [68]
 
===Sàng lọc===
Khi hơn 80% ung thư đại trực tràng phát sinh từ các polyp u tuyến, tầm soát ung thư này có hiệu quả không chỉ để phát hiện sớm nhưng cũng để phòng ngừa. [69] Chẩn đoán các trường hợp ung thư đại tràng qua sàng lọc có xu hướng xảy ra 2-3 năm trước khi chẩn đoán trường hợp có triệu chứng. [15] Bất kỳ polyp được phát hiện có thể được gỡ bỏ, thường là bằng nội soi, và do đó ngăn cản chuyển thành ung thư. Sàng lọc có khả năng làm giảm tử vong do ung thư đại trực tràng bằng 60%.
 
Ba xét nghiệm sàng lọc chính là thử nghiệm phân huyền bí máu, soi đại tràng sigma linh hoạt, và nội soi đại tràng. Trong số ba, chỉ soi đại tràng sigma có thể không sàng lọc ở phía bên phải của đại tràng, nơi 42% các khối u ác tính được tìm thấy. nội soi qua một CT quét xuất hiện tốt như nội soi tiêu chuẩn để phát hiện bệnh ung thư và u lớn nhưng đắt tiền, kết hợp với phơi nhiễm phóng xạ, và không thể loại bỏ bất kỳ tăng trưởng bất thường được phát hiện như nội soi can chuẩn.
 
Phân xét nghiệm máu (FOBT) của phân thường được khuyến cáo mỗi hai năm và có thể là dựa guaiac hoặc immunochemical. Nếu kết quả xét nghiệm FOBT bất thường được tìm thấy, người tham gia thường được gọi cho một cuộc kiểm tra nội soi theo dõi. Hàng năm để sàng lọc FOBT hai năm một lần làm giảm tỷ lệ tử vong ung thư đại trực tràng bằng 16% và trong số những người tham gia sàng lọc tử vong ung thư đại trực tràng có thể được giảm lên đến 23%, mặc dù nó chưa được chứng minh để giảm mọi nguyên nhân tử vong. Các thí nghiệm Immunochemical là độ chính xác cao và không cần phải thay đổi chế độ ăn uống hoặc dùng thuốc trước khi thử nghiệm.
 
Xã hội y tế tại Hoa Kỳ thường khuyên bạn nên kiểm tra trong độ tuổi từ 50 và 75 năm với soi đại tràng sigma mỗi 5 năm và nội soi đại tràng mỗi 10 năm. Đối với những người có nguy cơ cao, chiếu thường bắt đầu vào khoảng 40. Đó là chưa rõ ràng mà của hai phương pháp này là tốt hơn. Nội soi đại tràng có thể tìm thấy nhiều loại ung thư ở phần đầu tiên của ruột già nhưng được kết hợp với hơn chi phí và nhiều biến chứng hơn. Đối với những người có nguy cơ trung bình những người đã có một nội soi chất lượng cao với kết quả bình thường, các Hiệp hội Gastroenterological Mỹ không khuyến cáo bất kỳ loại sàng lọc trong 10 năm sau khi nội soi đại tràng. Đối với những người trên 75 hoặc những người có tuổi thọ dưới 10 năm, sàng lọc là không nên. Mất khoảng 10 năm sau khi sàng lọc đối với một trong số 1000 người được hưởng lợi.
 
Một số quốc gia có chương trình tầm soát đại trực tràng quốc gia trong đó cung cấp sàng lọc FOBT cho tất cả người lớn trong một nhóm tuổi nhất định, thường bắt đầu từ giữa tuổi 50 và 60. Ví dụ về các nước có sàng lọc có tổ chức bao gồm Vương quốc Anh, Úc và Hà Lan.
==Chữa trị==
Việc điều trị bệnh ung thư ruột/trực tràng nhằm mục đích chữa bệnh hoặc thuốc giảm đau. Các quyết định trên nhằm mục đích áp dụng phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, bao gồm cả sức khỏe của người, cũng như các giai đoạn của khối u. Khi ung thư đại trực tràng được phát hiện sớm, phẫu thuật có thể được chữa bệnh. Tuy nhiên, khi nó được phát hiện ở giai đoạn muộn (mà di căn đã có), đây là ít có khả năng và điều trị thường hướng vào thuốc giảm đau, để làm giảm các triệu chứng gây ra bởi khối u và giữ người thoải mái dễ chịu nhất có thể.