Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Quang Dũng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Bùi Quang Dũng''' (thế kỷ X) là một nhà hoạt động [[chính trị]], [[quân sự]] nổi tiếng thời [[nhà Đinh|Ðinh]]. Ông có nhiều công lao giúp [[Đinh Bộ Lĩnh]] dẹp [[12 sứ quân]] và tổ chức khai phá, mở mang kinh tế vùng Bố Hải Khẩu (thuộc tỉnh [[Thái Bình]] ngày nay). Ông là vị tướng nổi tiếng trung liệt – không thờ hai vua (với triều [[Lê Đại Hành]]) nên sau này được [[Lý Thái Tổ]] tôn hiệu Minh Triết Phu Tử.<ref>[http://www.baothaibinh.com.vn/52/3628/Bui_Quang_Dung_danh_nhan_trieu_Dinh__Ly.htm Bùi Quang Dũng danh nhân triều Đinh - Lý]</ref>
{{Thiếu nguồn gốc}}
[[Thể loại:Hoàn toàn không có nguồn tham khảo]]
 
'''Bùi Quang Dũng''' (thế kỷ X) là một nhà hoạt động [[chính trị]], [[quân sự]] nổi tiếng thời [[nhà Đinh|Ðinh]]. Ông có nhiều công lao tổ chức khai phá, mở mang kinh tế vùng Bố Hải Khẩu (thuộc tỉnh [[Thái Bình]] ngày nay).
 
Triều [[Đinh Tiên Hoàng]] (từ năm 968-979) có Khai Quốc Công Thần Trinh Quốc Công Bùi Quang Dũng nổi tiếng trung liệt – không thờ hai vua (với triều Lê Đại Hành) nên sau này được [[Lý Thái Tổ]] tôn hiệu Minh Triết Phu Tử.
 
==Tiểu sử==
Thiên sách thượng tướng Trinh quốc công '''Bùi Quang Dũng''' sinh giờ Thìn ngày 10 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức [[năm 922]]) trong một gia đình nông dân nghèo ở đất Phong Châu, [[Bạch Hạc]] (tỉnh [[Phú Thọ]] hiện nay). Từ trần tại nhà riêng vào giờ Dần, ngày 13 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018) năm Thuận Thiên thứ 9 [[nhà Lý]], hưởng thọ 97 tuổi.
 
Lúc còn nhỏ, ông có tư chất thông minh khác người và rất hiếu thảo với cha mẹ, lễ phép với bề trên, thuận hoà với bè bạn nên được mọi người qúy mến. Ông học rộng, hiểu nhiều, lớn lên trí dũng toàn tài, tinh thông Binh, Nông, Văn, Võ.{{cần dẫn chứng}}
 
==Hoạt động==
Hàng 16 ⟶ 11:
Năm Đinh Mão (967), biết [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] là người cương trực, mưu lược và chí lớn, ông đã tìm đến và ra mắt [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]], lúc đó ông đã 45 tuổi. Ông đã đem tài năng của mình, cùng với [[Nguyễn Bặc]], Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú... dốc lòng phò tá [[nhà Đinh]], thống nhất đất nước, lập nên triều đại [[nhà Đinh]]. [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là [[Đinh Tiên Hoàng]], đặt tên nước là [[Đại Cồ Việt]] đóng đô tại [[Hoa Lư]] ([[Ninh Bình]] ngày nay)
 
Năm Mậu Thìn (968), [[Đinh Bộ Lĩnh]] lên ngôi, ban thưởng tướng sĩ, phong ông là Anh Dực tướng quân, sung Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự. Năm 971, ở vùng Kỳ Bố, Ngô Văn Kháng nổi loạn, triều đình cử quân đánh dẹp nhưng thất bại. Vua cử Bùi Quang Dũng cầm quân. Bằng uy đức của mình, ông đã dụ hàng Ngô Văn Kháng. Vua Đinh phong ông là Trấn Đông Tiết độ sứ, Tổng thống kiêm lý ba đạo, được đóng quân ở thành Kỳ Bố; sau lại thăng Đặc khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tước An Tĩnh hầu và truy tặng cha ông là Khải Tá hầu.
 
Bùi Quang Dũng khai khẩn đất hoang ở ven sông Lãng Bạc và sông Cái ([[sông Trà Lý]] ngày nay), biến vùng đất hoang vu thành làng xóm đông vui, đồng ruộng tươi tốt. Đất ông được vua ban gọi là ấp Hàm Châu. Ngoài Hàm Châu, ông lập ra 8 trại khác (nay thuộc địa bàn huyện [[Vũ Thư]] và TP Thái Bình). Cảm tạ công lao của ông, dân các làng đều đặt tên làng mình là Bùi Xá.
 
Khi [[Đinh Bộ Lĩnh]] bị hành thích, [[Lê Hoàn]] được tôn lên làm vua. Giặc Tống nhân Đại Việt có biến, đem quân xâm lược. Sau chiến thắng chống Tống (981), Bùi Quang Dũng lui về ở ẩn trong động Trinh Thạch, khi đó đã 60 tuổi. Năm Kỷ Dậu (1009), [[Lý Công Uẩn]] lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Thái Tổ ba lần cho người vời nhưng ông đều thoái thác, lấy cớ tuổi già. Năm Thuận Thiên thứ 2 (triều Lý Thái Tổ), vùng Kỳ Bố Hải Khẩu có giặc. Triều đình ba lần đánh dẹp nhưng đều bị bại. Tướng Nguyễn Uy dò biết lòng dân đều nhớ thâm ân của Bùi Quang Dũng bèn tấu về triều. [[Lý Thái Tổ]] lại viết thư, sai Nguyễn Uy đem đến động Trinh Thạch mời ông về triều và nói rõ sự tình ở Kỳ Bố. Lúc này, Bùi Quang Dũng mới chịu xuất thế. Về kinh, ông được vua hậu đãi, ban hiệu là "Minh Triết Phu Tử", đối xử như thầy. Vua lại phong chức cũ thời Đinh của ông cho con trai ông là Bùi Quang Anh. Hai cha con Bùi Quang Dũng được phái về Kỳ Bố dẹp loạn. Khi ông tới nơi, giặc kéo nhau ra hàng.
 
Bùi Quang Dũng mất năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), thọ 97 tuổi. Lý Thái Tổ sai Bộ Lễ làm lễ cử ai và truy phong là Trịnh Quốc Công. Tháng 8 năm ấy, vua ngự đề văn bia Sự trạng ông; ngày 12-8, giao Thái sư Khuông Việt chép bản ngự chế lên bia đá. Thợ khắc đá Phạm Công Thắng vâng mệnh vua khắc bia. Sau đó, vua Lý cho người đem về từ đường ông ở ấp Hàm Châu để thờ.
Hàng 29 ⟶ 24:
Hết sức giúp nền thống nhất, chí khí ngay thẳng vang dội, ấp Hàm Châu vạn cổ vẫn còn".
 
Sau khi về kinh, [[Lý Thái Tổ]] còn xuống chỉ cho họ Bùi ở Hàm Châu ba ngôi cấm địa (nơi chôn cất Bùi Quang Dũng và song thân). Thời [[Trần Thái Tông]], Lê Thái Tông, cũng có chỉ cho họ Bùi ba ngôi cấm địa nguyên như trước. [[Lê Thái Tông]] còn ban chữ: "Bùi thị hưng gia Thái tổ".
 
==Tham khảo==