Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Đình Thứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
[[Tập tin:PhanDinhThuLamSon1.jpg|thumb]]
| tên= Phan Đình Thứ
'''Phan Đình Thứ''' tự '''Lam Sơn'''[[*]] (1919-2002), nguyên là một tướng lãnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. Ông nguyên là Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức]], nguyên Tư Lệnh [[Lực lượng đặc biệt]], nguyên Tư lệnh binh chủng [[Biệt Động Quân]] ''(Là Tư lệnh thứ 3 của binh chủng này sau Thiếu tá Lữ Đình Sơn và Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]]).
| biệt danh= Lam Sơn
| ngày sinh= 22-4-1919
| ngày mất= 23-7-2012
| nơi sinh= Thừa Thiên, VN
| nơi mất= [[Sài Gòn|Tp HCM]]
| hình= [[Tập tin:PhanDinhThuLamSon1.jpg|thumb170px]]
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà]]
| năm phục vụ= 1937-1973
| cấp bậc= [[Tập tin:US-O7 insignia.svg|12px]] [[Chuẩn tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn 23 và 21 Bộ binh<br>Bộ chỉ huy Biệt động quân<br>Trường Bộ binh Thủ Đức<br>Lực lượng Đặc biệt<br>Biệt khu Thủ đô<br>Quân đoàn III
| chỉ huy= Quân đội Pháp<br>Quân đội Quốc gia Việt Nam<br>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Tuỳ viên Quân sự
}}
'''Phan Đình Thứ''' tự '''Lam Sơn'''[[*]] (1919-2002), nguyên là một tướng lãnhlĩnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. Ông nguyên là Chỉ huy Trưởngtrưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Trường Sĩ quan trừTrừ bị Thủ Đức]], nguyên Tư Lệnh [[Lực lượng đặc biệt]], nguyên Tư lệnh binh chủng [[Biệt Động Quân]] ''(Là Tư lệnh thứ 3 của binh chủng này sau Thiếu tá Lữ Đình Sơn và Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]]).
==Tiểu sử & binh nghiệp==
Ông sinh ngày 22-4-1919 trong một gia đình quan lại tại [[Thừa Thiên]], Trung phần Việt Nam và lớn lên tại [[Huế]]. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông phải vừa đi làm, vừa tự học. Ông tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp chương trình Pháp tại Huế với văn bằng Thành chung.
 
===Quân đội Quốc giaPháp===
Năm 1937: Ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp thuộc binh chủng Pháo binh tại Sài Gòn, mang số quân: 39/200.308. Năm 1940, ông được chuyển qua ngành thông ngôn, phục vụ tại Hạt Charentes, Pháp.
 
Năm 1937:, Ôngông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp thuộc binh chủng Pháo binh tại Sài Gòn, mang số quân: 39/200.308. Năm 1940, ông được chuyển qua ngành thông ngôn, phục vụ tại Hạt Charentes, Pháp.
Năm 1943: Đầu năm, ông được đơn vị cử theo học trường Võ bị Lục quân Pháp tại Bắc Phi. Tháng 6 cùng năm, tốt nghiệp với cấp hàm [[Chuẩn úy]]. Sau đó, ông được cử đi học bổ túc ở trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ, mãn khoá ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] và phục vụ cho Quân đội Viễn chinh Pháp tại các chiến trường Tunisia, Algérie. Qua năm 1944, ông theo đơn vị trở về Đông Dương đóng quân ở Lào.
 
Năm 1943: Đầu năm 1943, ông được đơn vị cử theo học trường Võ bị Lục quân Pháp tại Bắc Phi. Tháng 6 cùng năm, tốt nghiệp với cấp hàm [[Chuẩn úy]]. Sau đó, ông được cử đi học bổ túc ở trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ, mãn khoá ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] và phục vụ cho Quân đội Viễn chinh Pháp tại các chiến trường Tunisia, Algérie. Qua năm 1944, ông theo đơn vị trở về Đông Dương đóng quân ở Lào.
Năm 1945: Ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán biệt kích đa quốc gia, nhảy xuống [[Cánh đồng Chum]], Lào để giải giới quân Nhật.
 
==Quân đội Quốc gia==
Năm 1945, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán biệt kích đa quốc gia, nhảy xuống [[Cánh đồng Chum]], Lào để giải giới quân Nhật.

===Quân đội Quốc gia===

Năm 1950:, Ôngông được thăng cấp [[Đại úy]] trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Cùng năm này, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập ''(tiền thân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] sau này)'', ông hồi hương và được chuyển sang Quân đội Quốc gia phục vụ tại Quảng Trị. Qua năm 1954, ông được lên cấp [[Thiếu tá]] và được cử đi học khóa Trung đoàn Trưởng tại Trung tâm nghiên cứu Quân sự, Hà Nội ''(tiền thân của trường Chỉ huy & Tham mưu)''. Học cùng khóa với ông còn có Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Đại úy [[Nguyễn Chánh Thi]].
 
===Quân đội Việt nam Cộng hoàhòa===
Năm 1955: Quân đội quốc gia được cải danh thành [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà|Quân đội Việt Nam Cộng hoà]], ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 23 bộ binh)''đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Cuối năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 16 lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Qua đầu năm 1958, ông được thăng cấp [[Đại tá]] thay thế Đại tá [[Lâm Văn Phát]] làm Tư lệnh Sư đoàn 13 khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 bộ binh)'', đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, mãn khoá về nước, ông được cử đi làm sĩ quan Tuỳ viên Quân sự tại Manila, Philippines.
 
Năm 1955:, Quân đội quốc gia được cải danh thành [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà|Quân đội Việt Nam Cộng hoà]], ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 23 bộ binh)'' đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Cuối năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 16 lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Qua đầu năm 1958, ông được thăng cấp [[Đại tá]] thay thế Đại tá [[Lâm Văn Phát]] làm Tư lệnh Sư đoàn 13 khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 bộ binh)'', đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, mãn khoá về nước, ông được cử đi làm sĩ quan Tuỳ viên Quân sự tại Manila, Philippines.
 
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông được cử thay thế Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]] làm Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân. Qua giữa tháng 5 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Đại tá [[Tôn Thất Xứng]]. Cùng thời điểm đi nhận chức Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức thay thế Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của Trường ''(có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh)''. Trong thời gian đương nhiệm, đã tổ chức lễ mãn khoá cho 3 khoá sĩ quan trừ bị là khoá 12 Trần Hưng Đạo, khoá 13 Ấp Chiến Lược và khoá 14 Nhân Trí Dũng.
 
Năm 1963: ''(Đầu tháng 8 năm 1963, Liên trường Võ khoa Thủ Đức được cải danh thành rườngtrường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, trở lại ''(danh hiệu cũ lúc mới thành lập)''. Đầu tháng 11 cùng năm, được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Thủ Đức lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]].
 
Đầu tháng 11 năm 1963, ông được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Thủ Đức lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]].
Năm 1964: Trung tuần tháng 2, Ông được cử làm Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]] đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật)''. Sau đó ông được chuyển đến phục vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương, Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
 
Năm 1964: Trung tuần tháng 2 năm 1964, Ôngông được cử làm Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]] đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật)''. Sau đó ông được chuyển đến phục vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương, Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
Năm 1970: Đầu năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng [[Phạm Văn Phú]]. Cùng thời điểm đi nhận chức phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Giữa năm nhận chức Tư lệnh phó lãnh thổ Quân đoàn III kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & Nghĩa quân Quân khu 3. Qua năm 1971, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
 
Năm 1970: Đầu năm 1970, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng [[Phạm Văn Phú]]. Cùng thời điểm đi nhận chức phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Giữa năm nhận chức Tư lệnh phó lãnh thổ Quân đoàn III kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & Nghĩa quân Quân khu 3. Qua năm 1971, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
Năm 1972: Ông dược bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng ''(lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]])''. Tướng Quảng được điều về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.
*''Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơn về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng Lam Sơn về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam Sơn đã dùng súng nấp ở sau bờ tường bắn, đương sự ngã quỵ khiến lựu đạn nổ bị trọng thương và sau đó tử vong.
 
Năm 1972:, Ôngông dược bổchỉ nhiệmđịnh chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng ''(lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]])''. Tướng Quảng được điều về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.
Sau sự việc trên, ông bị đưa về giam tại Chí Hoà để điều tra và ngày 29/11 ra Toà án Mặt trận Quân sự và bị xử án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong của viên Trung sĩ nói trên. Qua năm 1973, ông bị buộc phải giải ngũ.
*: ''Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơn về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng Lam Sơn về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam Sơn đã dùng súng nấp ở sau bờ tường bắn, đương sự ngã quỵ khiến lựu đạn nổ bị trọng thương và sau đó tử vong.
 
Sau sự việc trên, ông bị đưa về giam tại Chí Hoà để điều tra và ngày 29/ tháng 11 ra ToàTòa án Mặt trận Quân sự và bị xử án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong của viên Trung sĩ nói trên. Qua năm 1973, ông bị buộc phải giải ngũ.
 
Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huy, huân chượng của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.<ref>'''Huy Chương Việt Nam Cộng hòa:'''
Hàng 37 ⟶ 59:
 
==1975==
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông bị đưa đi tù cũng như các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khác và bị đưa ra miền Bắc Việt Nam tập trung ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khi đi cải tạo, vì bị mất liên lạc với gia đình, ông không được thăm nuôi, nên được gọi là tướng mồ côi ''(Cùng cảnh ngộ này là tướng Dương Văn Đức và tướng Hồ Trung Hậu)''. Mười ba năm sau (1988) ông được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình H.O, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình HO. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989.

Năm 1995, ông một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và mất tại Tp HCM (Sài Gòn) vào ngày 23 tháng 07 năm 2002.
 
==Gia đình==
Hàng 51 ⟶ 75:
Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức]], trong một buổi duyệt binh thường lệ, viên Đại tá cố vấn Mỹ đi cùng với Đại tá Lam Sơn bất ngờ dừng lại, đưa ngón tay chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng, cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đang đứng bên cạnh, Lam Sơn cho viên cố vấn Mỹ một cái tát với lời cảnh cáo: "Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Rõ chưa?"
==Tham khảo==
*''"Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa"'' Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình ThuỵThụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa''.
 
==Chú thích==