Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Nguyễn Huệ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 32:
'''''Hướng thứ yếu: ''''' Đường 22 (Tây Ninh). Lực lượng QLVNCH có 10 trung đoàn bộ binh, 4 trđ thiết giáp. Hướng này được chọn là do sai lầm của QLVNCH cho rằng thị xã Tây Ninh mới đúng là nơi QĐNDVN muốn chiếm để đóng thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời CHMHVN.
 
'''''Hướng tiến công chủ yếu: ''''' Đường 13 (Lộc Ninh - Bình Long), nơi VNCH chỉ bố trí binh lực hạn chế (trung đoàn 5 & 9 / sư bộ binh 5, ba tiểu đoàn biệt động quân(53, 65, 74) và thiết đoàn 1 tăng - thiết giáp). Hướng này giáp với chặng cuối [[đường Trường Sơn]], tạo thành hậu phương vững chắc của chiến dịch. Ở đây còn tiếp giáp với khu vực Móc Câu vốn là căn cứ cũ, khu vực Snoul vừa tiếp thu là bàn đạp để QGPQĐNDVN tiến xuống phía nam theo đường 13, gây tác động dây chuyền. Một khi tuyến phòng ngự của VNCH trên hướng này bị phá vỡ, sư 5 QLVNCH bị đánh quỵ thì Sài Gòn lập tức bị uy hiếp, bố trí chiến lược của địch ở Đông Nam Bộ bị đảo lộn, phong trào nổi dậy chống phá bình định ở Bắc tỉnh Bình Dương sẽ có điều kiện phát triển mạnh.
 
===Phân công lực lượng===
 
*F5 QĐNDVN, tăng cường E bộ binh 3E3 (F9), E pháo 208 (đoàn 75), một C10/D20 tăng đảm nhận đột phá trên hướng chủ yếu. Đây sẽ là trận tiến công khu vực quyết chiến then chốt mở đầu để giải phóng Lộc Ninh.
*F9 (thiếu E3) làm lực lượng dự bị chiến dịch, sẵn sàng tiến công thị xã (TX) Bình Long (tức An Lộc).
*F7 luồn sâu bao vây, lập các chốt chặn dọc đường 13 từ [[cầu Cần Lê]] xuống bắc [[Chơn Thành]], có nhiệm vụ chặn viện và diệt quân rút lui.
Dòng 44:
===Giai đoạn 1 - Lộc Ninh - Xa Mát - Phước Bình===
{{chính|Trận Lộc Ninh}}
Khi phát hiện thiếtxe giáptăng củađối QGPphương ở bắc [[Tây Ninh]] dọc lộ 22, tất cả lực lượng VNCH trong vùng 3 chiến thuật chuyển từ báo động "vàng" sang báo động "đỏ". Sư đoàn 25 QLVNCH phòng thủ đường 22 được bổ sung [[xe tăng]], xe bọc thép.
[[Tập tin:BochaykhoiAnloc.png|nhỏ|200px|Làn sóng người tỵ nạn khi chiến sự nổ ra]]
4 giờ sáng [[1 tháng 4]], đợt 1 chiến dịch mở màn, tại hướng Đường 22, đoàn C30B bắt đầu nổ súng tiến công vào đội hình phòng ngự của chiến đoàn 49 tại [[Xa Mát]] - Bàu Dung (đông - bắc Xà Xía) và bắc Thiện Ngôn, đến chiều ngày [[2 tháng 4]] thì chiếm được căn cứ Xa Mát. Khi chiến dịch bắt đầu tại hướng thứ yếu thì các lực lượng cho hướng chủ yếu mới bắt đầu triển khai.
 
Ngày 3 và 4 tháng 4 trên hướng đường 13, tin tình báo của Bộ tư lệnh quân giải phóng cho biết, VNCH đã phát hiện một lực lượng QGP đang di chuyển ở vùng tây và đông - bắc [[Lộc Ninh]]; trong lúc đó, trên đường 22 sau khi làm chủ Xa Mát, đoàn C30B tiếp tục phát triển tiến công, diệt thêm năm đồn bót lẻ. VNCH tiếp tục cho Tây Ninh là nghiêm trọng. Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu|Thiệu]] đã lệnh rút liên đoàn Biệt động quân dày dạn chiến đấu nhất ở vùng Bình Long (đường 13) ra ứng chiến tại [[Chiến dịch Trị Thiên|mặt trận Trị - Thiên]] khi tình hình ở đây trở nên nguy ngập.
 
8 giờ sáng [[4 tháng 4]], Trung đoàn 2 bộ đội địa phương Phước Long tấn công Chi khu quân sự (CKQS) Phước Bình. Sau 6 giờ chống cự, Chi khu quân sự Phước Bình bịthất QGP tràn ngậpthủ. Việc mất CKQS Phước Bình tạo thêm một mối lo từ phía Đông cho QLVNCH. Tuy nhiên họ quyết định bỏ Phước Bình vì đó là tiền đồn quá xa, không ảnh hưởng nhiều đến mặt trận chính.
 
Sau bốn ngày đêm, ngày 4 tháng 4, đoàn C30B đã tiêu diệt cụm cứ điểm tiền tiêu Xa Mát, đánh thiệt hại nặng chiến đoàn 49, làm chủ từ bắc Thiện Ngôn đến biên giới. Cùng lúc, các lực lượng lớn cho hướng chủ yếu đã được triển khai trót lọt, tạo thuận lợi cho bước phát triển chiến dịch.
 
5 giờ 50 phút ngày 5 tháng 4, trận mở đầu trên hướng chủ yếu nổ ra. Các đơn vị QGPQĐNDVN bỏ qua các căn cứ vòng ngoài, thọc thẳng vào trung tâm cụm cứ điểm Lộc Ninh. Ngay ngày đầu, cụm cứ điểm Lộc Ninh đã bị vây lấn tiêu diệt, toàn bộ lực lượng VNCH (hai tiểu đoàn bộ binh, một [[trung đoàn]] thiết giáp) đóng chốt ở căn cứ Hoa Lư - một căn cứ quan trọng của tuyến phòng thủ phía bắc được lệnh rút bỏ về phía sau để ứng cứu cho Lộc Ninh. Sang ngày thứ hai (6 tháng 4), toàn bộ lực lượng này lọt vào trận địa phục kích bày sẵn và bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngày thứ ba, hai trung đoàn của Công đoànTrường 5 QGP được tăng cường một trung đoàn pháo - cối hoả tiễn, hai đại đội xe tăng từ hai hướng tây - bắc và đông tiếp tục tiến công. Đến chiều ngày 7 tháng 4, QGP hoàn toàn làm chủ cụm cứ điểm Lộc Ninh, đại tá Nguyễn Công Vĩnh, chỉ huy chiến đoàn 9 ra hàng.
[[Tập tin:This NVA T-54 tank was knocked out just as it attempted to breach the barbed wire around the Binh Long Province compound near the southern gate of An Loc.png|nhỏ|trái|200px|Tăng t-54 quân giải phóng bị bắn cháy phía nam An Lộc]]
Bước đầu của chiến dịch kết thúc vào ngày 8 tháng 4 năm 1972 với những thắng lợi vượt mức dự kiến của [[Bộ chỉ huy Miền]]. Chỉ trong tám ngày tiến công, QGP đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu ba chiến đoàn và một tiểu đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp, thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, diệt và bức rút nhiều đồn bốt, phá tan tuyến phòng thủ phía trước trên vòng cung phía bắc Sài Gòn, dọc theo biên giới Đông Nam Bộ. QuânTại miền trung, Giải phóng đã kiểm soát thêm các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân và nửa phía bắc huyện Phù Mỹ với trên 20 vạn dân.
 
Đêm 6 tháng 4, sau khi nhận được tin trung đoàn thiết giáp của QLVNCH tại Lộc Ninh đã bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy Miền họp bàn và đề nghị Bộ chỉ huy chiến dịch tranh thủ thời cơ lúc QLVNCH chưa có tăng viện lớn cho khu vực thị xã An Lộc ngoài việc đưa tiếp lực lượng sư đoàn 5 lên làm nhiệm vụ phòng giữ cầu Cần Lê chưa bị phá, để tiến công chiếm lĩnh thị xã An Lộc, chậm nhất là vào ngày 9 tháng 4.
 
Tuy nhiên, do không có kế hoạch chi tiết từ trước nên công tác chuẩn bị của QGPQĐNDVN đã bị chậm trễ và gặp nhiều khó khăn. Đến ngày 13 tháng 4, [[trận An Lộc|cuộc tiến công vào An Lộc]] mới bắt đầu, nhưng thời cơ đã mất. Cho đến ngày hôm đó, QLVNCH đã kịp củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ tại An Lộc. Tướng [[Nguyễn Văn Minh]], chỉ huy quân đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phái sư đoàn 5 tới giữ thị xã. Lực lượng này được tăng cường bởi 2 tiểu đoàn Biệt động quân (ngày 7 tháng 4) và 2 tiểu đoàn bộ binh (ngày 10 và 11 tháng 4).<ref>Ngô Quang Trưởng, ''The Easter offensive of 1972.'' Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1980. tr. 116.</ref> Sư đoàn 21 Bộ binh QLVNCH, trước đóng tại [[đồng bằng sông Cửu Long]], được gấp rút chuyển đến Chơn Thành để cùng với 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 Bộ binh QLVNCH làm lực lượng giải cứu. Toàn bộ lực lượng trong vùng lên đến ba lữ đoàn tăng cường, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng [[Lê Văn Hưng]], sư đoàn trưởng sư đoàn 5. Ngày 9 tháng 4, cầu Cần Lê bị phá. Đồng thời, bắt đầu từ ngày 9 tháng 4, QLVNCH mở cuộc hành quân "Toàn thắng - 72B" nhằm giải toả sức ép của lực lượngđối QPGphương tại vòng vây quanh khu vực thị xã.
 
Ngày [[13 tháng 4]], An Lộc bị bao vây và chịu một cuộc tấn công hiệp đồng giữa tăng-pháo binh, thiết giáp và bộ binhđội củaCông Sư đoànTrường 9 QGP. Bảo vệ quân phòng thủ là những trận mưa [[rốc két|rốc-két]], [[bom]], và [[napan|napalm]] từ các máy bay của Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thị xã, các cố vấn Mỹ trở nên đóng vai trò cốt tử cho việc chỉ huy lực lượng phòng thủ<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>, họ tổ chức hỏa lực và hỗ trợ từ không lực, hậu cần, và thông tin tình báo. Trong khi đó, sự do dự trong phản công và sự phụ thuộc vào hỏa lực không quân của tướng Hưng, chỉ huy của lực lượng phòng thủ đã làm cho thiếu tá William Miller, cố vấn cao cấp người Mỹ, nhận xét rằng: "Ông ấy mệt mỏi - không kiên định - phi lý - dễ cáu - không nghe lời khuyên - và không tiếp cận được<ref>"He is tired - unstable - irrational - irritable - inadvisable - and unapproachable." Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>
 
Các cuộc tấn công của QGP vẫnQĐNDVNvẫn tiếp diễn và cuối cùng họ cũng vào được thị xã, chiến sân bay và thu hẹp vùng kiểm soát của QLVNCH xuống còn khoảng 1&nbsp;km<sup>2</sup>. Trong cuộc tấn công ngày 21, xe tăng QGPQĐNDVN vượt qua được tuyến phòng thủ nhưng lại bị diệt bởi các súng bắn tăng và trực thăng trang bị súng. Cú sốc ban đầu mà xe tăng QGP gây ra cho lực lượng phòng thủ nhanh chóng trôimất quahiệu quả, khi xe tăng khôngtiến quá bộnhanh binh đitùng thiết theo yểmkhông trợkịp, đã trở thành mục tiêu dễ dàng cho các loạicủa súng chống tăng<ref>Ngô Quang Trưởng, tr. 119.</ref> Những đợt khác lại là lực lượng tấn công lớn bằng bộ binh và hỏa lực mà không có tăng thiết giáp hỗ trợ. Sự thất bại trong hiệp đồng tác chiến này là một trong những điểm yếu của lực lượng tấn công, cái mà lực lượng phòng thủ nhanh chóng tận dụng. Tuy nhiên, bộ binh QGPQĐNDVN cũng chiếm được gần hết khu vực phía Bắc của thị xã.
 
Bên cạnh hiệp đồng yếu, khó khăn chính cho QGPQĐNDVN là mưa bom đạn liên tục đổ xuống từ các cuộc không kích, gây ra thương vong lớn và gây khó khăn cho hậu cần. Sau thất bại của cuộc tấn công ngày 21 tháng 4, trận chiến chuyển thành một cuộc bao vây mà trong đó QGPpháo binh Miền bắn phá An Lộc từ 1200 đến 2000 loạtviên súngpháo cối, rốc-két, và pháo mỗi ngày.<ref>Maj A.J.C. Lavalle, ''Air Power and the 1972 Spring Invasion''. Washington DC: Office of Air force History, 1985, tr. 86.</ref> An Lộc bị bao vây hoàn toàn và chỉ có thể được tiếp viện qua đường không, một tình thế càng khó khăn hơn do việc mất sân bay. Tuy nhiên, việckhông quân đã tiếp viện đã được thực hiện với 448 phi vụ, chuyển 2693 tấn lương thực, thuốc men, và vũ khí đạn dược.<ref>Gen [[William W. Momyer]], ''The Vietnamese Air Force''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 50.</ref>
 
Thời cơ đã mất, tương quan lực lượng đã thay đổi. ''Phía phòng ngự quân đông<ref name="NQT-phòng thủ">Cho đến ngày cuộc tiếp công bắt đầu, QLVNCH đã kịp củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ tại An Lộc. Tướng [[Nguyễn Văn Minh]], chỉ huy quân đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phái sư đoàn 5 tới giữ thị xã. Lực lượng này được tăng cường bởi 2 tiểu đoàn Biệt động quân (ngày 7 tháng 4) và 2 tiểu đoàn bộ binh (ngày 10 và 11 tháng 4).<br>Nguồn: Ngô Quang Trưởng, ''The Easter offensive of 1972.'' Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1980. tr. 116.</ref>, hoả lực mạnh, trong khi bên tiến công không có ưu thế nổi trội''. Cuộc tiến công thứ nhất của QGP vào An Lộc đã thất bại. Từ 15 tháng 4, QLVNCH tiếp tục cho đổ toàn bộ Lữ 1 Dù và Liên đoàn 81 Biệt cách dù xuống khu vực Núi Gió, lấy đó làm bàn đạp, đánh tập hậu lực lượng tấn công để mở đường vào thị xã; ngoài ra, Lữ 3 Dù từ Tây Nguyên cũng được đưa về Đông Nam Bộ. Theo đánh giá của tướng Hoàng Cầm thì lực lượng tập trung để cố thủ thị xã An Lộc đã lên tới năm chiến đoàn tăng cường (tương đương hai sư đoàn QĐNDVN).
 
Trong nửa cuối tháng 4, QGPQĐNDVN đã tiến công chiếm lại Núi Gió và điểm cao 169, diệt phần lớn Tiểu đoàn 6 dù cùng ban chỉ huy Lữ 1 Dù. Lực lượng QLVNCH ở thị xã An Lộc vẫn quyết tâm cố thủ, quân tiếp viện trên đường 13 vẫn dồn lên nhằm giải toả An Lộc. Tại đường 13, các đơn vị sư đoàn 7 QGPF7 đã bao vây tiến công Chiến đoàn 7 ở Phù Lổ, diệt Chiến đoàn 52 ở cầu Cần Lê khi chiến đoàn này từ ngã ba Đồng Tâm rút chạy về hướng thị xã An Lộc, đẩy lùi cuộc tiến quân của Lữ 1 Dù từ Chơn Thành lên Ngọc Bầu, đánh bại cuộc hành quân mở đường của sư đoàn 21 ở bắc Chơn Thành, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 3 dù khi lực lượng này đổ quân xuống Tàu Ô. Tuy Sư đoàn 7 QGPF7 vẫn chặn được quân tiếp viện của VNCH trên đường 13, nhưng lực lượng phòng không của QGPQĐNDVN không đủ sức chặn viện binh đối phương cho An Lộc qua đường không.
 
Trước tình hình này, đầu tháng 5, Bộ chỉ huy Miền đánh giá tương quan lực lượng đã nghiêng về phía đối phương; QGP chưa tạo thế đủ mạnh để áp đảo; và không còn yếu tố bất ngờ nào nữa. Từ nhận định này, Bộ chỉ huy Miền chủ trương không tiếp tục tiến công An Lộc nữa mà chuyển sang bao vây cô lập, và đưa sư đoàn 5 xuống đồng bằng sông Cửu Long để thực hiện phần chống phá bình định theo kế hoạch chiến dịch. Tuy nhiên Bộ tư lệnh chiến dịch vẫn giữ quyết tâm tiến công thị xã An Lộc với lập luận rằng thất bại của đợt tiến công đầu "không phải vì địch mạnh mà do ta đánh chưa tốt".
Dòng 76:
Từ [[22 tháng 4]] đến [[10 tháng 5]], chiến sự ổn định ở thế trận mà báo ''[[Paris Match]]'' ví với "một [[trận Verdun|Verdun]] hay một [[trận Stalingrad|Stalingrad]]".<ref>''Paris Match'', 5 tháng 7 năm 1972.</ref>
 
Sáng ngày 11 tháng 5, cuộc tiến công đợt hai vào thị xã An Lộc bắt đầu với một kế hoạch đã rút kinh nghiệm các đợt tiến công lần trước. Đến cuối ngày, địa bàn phòng thủ của QLVNCH rút xuống còn mỗi chiều khoảng 1&nbsp;km.<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995, tr. 472.</ref> Nhưng nỗ lực của họ lại thất bại trước hỏa lực dữ dội từ trên không, Hoa Kỳ ước tính Quân Giải phóng bị thương vong hơn 800 người.<ref>Momyer, General William W. ''The Vietnamese Air Force, 1951-1975, An Analysis of its Role in Combat''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 47.</ref> Trong suốt 25 tiếng đồng hồ bắt đầu từ 5:50 sáng, cứ 55 phút lại có một đợt máy bay [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]] rải thảm để hỗ trợ quân phòng thủ.<ref>Fulgham, David, Terrence Maitland, et al. ''South Vietnam on Trial: Mid-1970-1972''. Boston: Boston Publishing Company, 1984, tr. 153.</ref> Trong 3 ngày sau, mỗi khi Quân Giải phóng tập trung lực lượng để tiếp tục tấn công, họ lại bị ném bom vào khu vực tập trung quân. Đỉnh cao của đợt tấn công là vào ngày 14 tháng 5, khi Quân Giải phóng đánh thẳng vào trung tâm phòng thủ của QLVNCH. <blockquote>Thiếu tá [[Walt Ulmer]], cố vấn của Sư đoàn 5 QLVNCH, miêu tả: "''Họ cứ cố chất đống lên và chất đống lên. Họ đã lãng phí khủng khiếp nhiều binh lực''.<ref>"''they were simply trying to pile on and pile on and pile on. They frittered away an awful lot of manpower.''" Fulgham & Maitland, tr. 154.</ref> Ngày 15 tháng 5, đợt tấn công An Lộc lần thứ hai kết thúc thất bại.</blockquote>Sư đoàn 21 QLVNCH đã được giao nhiệm vụ giải cứu, nhưng sư đoàn này không đến được An Lộc. Trong 3 tuần, sư đoàn này tiến chập chạp về phía Bắc dọc theo đường 13, nhưng bị kìm chân bởi lực lượng nhỏ hơn của F7 có nhiệm vụ chốt chặn con đường này.
 
Sư đoàn 21 QLVNCH đã được giao nhiệm vụ giải cứu, nhưng sư đoàn này không đến được An Lộc. Trong 3 tuần, sư đoàn này tiến chập chạp về phía Bắc dọc theo đường 13, nhưng bị kìm chân bởi lực lượng nhỏ hơn của Sư đoàn 7 Quân Giải phóng có nhiệm vụ chốt chặn con đường này.
 
===Giai đoạn 2 - Bao vây An Lộc và chốt chặn Đường 13===
{{chính|Trận An Lộc}}
Ngày 16 tháng 5, chiến dịch chuyển sang đợt hai.
 
Việc không đánh chiếm được thị xã An Lộc đã ảnh hưởng không tốt đến việc QGPQĐNDVN phát triển chiến dịch theo kế hoạch ban đầu. Qua hai tháng chiến đấu quyết liệt, quân số, vũ khí đạn dược trở nên thiếu. Trung đoàn pháo chỉ còn 1/2 tổng số đầu khẩu, xe tăng còn ít lại thiếu xăng nên không dùng được.
 
Đến đây, thực hiện chỉ thị của Bộ chính trị, tướng [[Hoàng Văn Thái]] cùng Sư đoàn 5 và 1/3 lực lượng binh chủng chuyển xuống đồng bằng sông Cửu Long tham gia chiến dịch tổng hợp trên chiến trường Khu 8. Sư đoàn 9 QGP không tiếp tục tiến công An Lộc mà chỉ vây lỏng. Sư đoàn 7 tiếp tục kìm chân và thu hút đối phương trên đường 13. Tất cả nhằm bảo vệ các vùng Lộc Ninh và [[Bù Dốp]] đã chiếm được và tạo thuận lợi cho địa phương Miền Đông phá bình định và phối hợp với chiến dịch tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long. Đại tá [[Hoàng Cầm (tướng)|Hoàng Cầm]] được giao vị trí tư lệnh kiêm chính ủy của Bộ tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ.