Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Thái (Lưu Tống)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi 22478272 của 116.106.246.29 (Thảo luận)
Dòng 18:
[[Lư Tuần]] [[Khởi nghĩa Lư Tuần|nổi dậy]] (410), Thái sắp sẵn 1000 quân tham gia trấn áp nghĩa quân, mở kho cấp lương, được Lưu Dụ gia hiệu Chấn vũ tướng quân. Năm sau, được thăng Thị trung, rồi chuyển làm Độ chi thượng thư.
 
Sau đó Thái được dời làm Thái thường. Lưu Dụ muốn phong [[Lưu Nghĩa Long]] tước Hoa Dung huyện công – tước cũ của Nam Quận công [[Lưu Đạo Quy]] (đã mất); Thái cho rằng việc này không hợp lễ, Dụ nghe theo <ref>Khi xưa Lưu Đạo Quy không có con, nên nhận nuôi con trai thứ 2 của Lưu Dụ là Lưu Nghĩa Long; nhưng đến khi Đạo Quy mất, Lưu Dụ lấy con trai thứ 2 của [[Lưu Đạo Liên]] là [[Lưu Nghĩa Khánh]] kế tự ông ta. Lưu Dụ truy phong Đạo Quy tước Nam Quận công, lại sủng ái Nghĩa Long, muốn lấy dành chỗ tốt cho Nghĩa Long, bèn lấy cớ Đạo Quy yêu thương Nghĩa Long, lấyđem tước cũ của Đạo Quy là Hoa Dung huyện công ban cho Nghĩa Long. Thái can rằng theo lễ chế không thể có 2 người được kế tự, nên tránh ban phong hiệu cũ của Đạo Quy cho Nghĩa Long</ref>. Thái được chuyển làm Đại tư mã Trưởng sử, Hữu vệ tướng quân, gia Tán kỵ thường thị. Rồi được làm Thượng thư, thường thị như cũ. Thái được kiêm chức Tư không, cùng Hữu bộc xạ [[Viên Trạm]] nhận nghi lễ Cửu tích ban cho Lưu Dụ, vì thế ông theo quân đội đến Lạc Dương.
 
Lưu Dụ quay về Bành Thành, cùng Thái lên thành, vì ông đau chân, nên được đặc cách ngồi xe. Thái thích rượu, không câu nệ tiểu tiết, tính khoáng đạt tự nhiên, dẫu ngồi tại công sở, chẳng khác nhà riêng, rất được Lưu Dụ thưởng thức và yêu mến. Nhưng Thái không giỏi trị lý, nên không được nhiệm dụng chức vụ quan trọng; được thăng làm Hộ quân tướng quân, miễn công việc.