Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Lãm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 9:
Sử cũ nói khi Nam Tấn mất, 12 sứ quân đua nhau nổi lên. Đinh Bộ Lĩnh vốn dựa vào Minh Công. Minh Công chết rồi mới thay lĩnh số quân đó. Mà năm Xương Văn thứ nhất đã ghi [[Đinh Bộ Lĩnh]] chiếm [[Hoa Lư]], hai vương đi đánh không được. Thế thì Minh Công khởi binh phải xảy ra trước khi Xương Văn lấy lại được nước. Từ đó mà suy ra thì [[12 sứ quân]], phải có người khởi binh trước, người khởi binh sau, không phải là đến khi Nam Tấn mất rồi, mới cùng lúc nổi dậy.<ref>[Đặng Xuân Bảng. Việt sử cương mục tiết yếu. Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. tr. 62]</ref> Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng khẳng định ông nổi dậy từ trước khi Ngô Xương Văn được nước, tức trước năm 951 khi mà [[Đinh Bộ Lĩnh]] bắt đầu dấy binh ở [[Hoa Lư]], sau về với Minh Công<ref>Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Tiền Biên - Quyển V trang 79</ref> Lực lượng của ông có sự liên kết, phối hợp với [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]], theo sử sách thì [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] chính là con nuôi của Trần Lãm<ref>Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Quyển V viết Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi Trần Lãm.</ref>
 
Trần Lãm tự xưng Trần Minh Công khi chiếm giữ và cát cứ vùng đất Thái Bình - Nam Định. Ông có đội ngũ thuộc hạ hùng mạnh gồm các tướng tài như Ngô Văn Chấn, Ngô Tất An, Bùi Quang Dũng, Nguyễn Đức Long, Nguyễn Đức Học,... Sau khi ông mất, [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] nắm binh quyền, chuyển về [[Hoa Lư]] đánh dẹp các sứ quân, lập ra [[nhà Đinh]] (968 - 980).
 
==Gia quyến==