Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đái tháo đường”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 47:
 
== Chẩn đoán ==
Một số xét nghiệm cần thiết phục vụ cho việc chẩn đoán bệnh:
Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết tương:
 
===Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết tương:===
Đái tháo đường:
*Đo Đườngnồng độ đường trong máu lúc đói, ≥ 126 mg/dl (≥sau 7 mmol/l)khi thửăn ít nhấtsự 2dung lầnnạp liênchất tiếpnày.
 
====Đo nồng độ glucose trong máu lúc đói====
* Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥ 200 mg/dl (≥ 11,1 mmol/l).
Xác định tiểu đường trong 2 lần xét nghiệm đều cho kết quả là nồng độ glucose trong máu lúc đói cao hơn 126mg/dl. Khi kết quả xét nghiệm có nồng độ từ 110 và 126mg/dl thì coi là tiền tiểu đường, báo hiệu nguy cơ bị tiểu đường type 2 với các biến chứng của bệnh.
 
====Đo nồng độ glucose sau khi đã ăn====
Tiền đái tháo đường:
Nếu kết quả đo nồng độ glucose sau khi đă ăn cao hơn 200mg/dl kèm các triệu chứng của bệnh (khát nhiều, đái nhiều và mỏi mệt) thì nghi ngờ bị bệnh tiểu đường.
 
====Đánh giá sự dung nạp sau khi uống glucose====
Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9&nbsp;mmol/l được gọi là những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói". Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân ĐTĐ, nhưng cũng không được coi là "bình thường" vì theo thời gian, rất nhiều người người "rối loạn dung nạp đường khi đói" sẽ tiến triển thành ĐTĐ thực sự nếu không có lối sống tốt. Mặt khác, người ta cũng ghi nhận rằng những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói" bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim mạch, đột quị hơn những người có mức đường máu < 5,5&nbsp;mmol/l.
Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn nữa bằng cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo cách thông thường không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là "test dung nạp glucose bằng đường uống". Xét nghiệm nồng độ glucose sau khi uống 2 giờ. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy nồng độ này vẫn cao hơn 200mg/dl thì chẩn đoán là bị bệnh tiểu đường type 2.
 
====Tóm tắt====
Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn nữa bằng cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo cách thông thường không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là "test dung nạp glucose bằng đường uống".
 
'''rối loạn hạ đường huyết'''
Test này được thực hiện như sau:
Nếu kết quả đo mức đường máu lúc đói < 70mg/dl là có rối loạn hạ đường huyết, như kết quả đo 53mg/dl là có thể bị hôn mê do hạ đường huyết.
 
'''Tiền đái tháo đường:'''
Điều kiện: ăn 3 ngày liền đủ lượng carbonhydrat (> 200g/ngày), không dùng thuốc làm tăng đường máu, đường máu lúc đói bình thường, không bị stress.
 
Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9&nbsp;mmol>110mg/ldl được gọi là những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói". Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân ĐTĐ, nhưng cũng không được coi là "bình thường" vì theo thời gian, rất nhiều người người "rối loạn dung nạp đường khi đói" sẽ tiến triển thành ĐTĐ thực sự nếu không có lối sống tốt. Mặt khác, người ta cũng ghi nhận rằng những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói" bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim mạch, đột quị hơn. những người có mức đường máu < 5,5&nbsp;mmol/l.
Thực hiện: nhịn đói 12 giờ, uống 75 gam đường glucose trong 250ml nước (không nóng - không lạnh). Định lượng đường máu sau 2 giờ.
 
'''Đái tháo đường:'''
Đọc kết quả: ‘Test dung nạp glucose đường uống’:
* Đường máu lúc đói ≥ 126&nbsp;mg/dl (≥ 7&nbsp;mmol/l) thử ít nhất 2 lần liên tiếp.
 
* Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥ 200&nbsp;mg/dl (≥ 11,1&nbsp;mmol/l).
Nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥11,1&nbsp;mmol/l: chẩn đoán ĐTĐ; nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥7,8&nbsp;mmol/l nhưng < 11,1&nbsp;mmol/l: những người này được xếp loại giảm dung nạp đường glucose. Người mắc giảm dung nạp đường glucose không những có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ sau này, mà còn tăng nguy cơ mắc các bệnh tim-mạch như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
 
====Định lượng HbA1C====
Định lượng đường niệu: chỉ có giá trị rất hãn hữu trong việc theo dõi đối với bản thân bệnh nhân ngoại trú. Không dùng để chẩn đoán bệnh.
Glucose trong máu có thể gắn kết với hemoglobin (phần mang oxy) của hồng cầu để tạo nên một phức hợp gọi là HbA1c (Glycosylated hemoglobin). Một khi glucose gắn kết với hemoglobin , nó sẽ ở đó và tồn tại đến hết đời sống của hồng cầu kéo dài khoảng 3 tháng. Như vậy nếu nồng độ glucose trong máu càng cao thì lượng glucose gắn vào hemoglobin của hồng cầu càng nhiều, và như vậy nồng độ HbA1c cũng sẽ gia tăng. Xét nghiệm nồng độ HbA1c giúp đánh giá lượng glucose gắn vào hemoglobin của hồng cầu, và từ đó đánh giá được nồng độ glucose trong máu. Vì đời sống hồng cầu chỉ tồn tại trong vòng 3 tháng nên giá trị HbA1C sẽ phản ánh nồng độ glucose trong máu trung bình trong vòng 3 tháng trước đó.
 
Ngoài các xét nghiệm này, HbA1C cũng là một xét nghiệm giúp việc chẩn đoán xác định bệnh tiểu đường mang lại kết quả chính xác. Glucose trong máu có thể gắn kết với hemoglobin (phần mang oxy) của hồng cầu để tạo nên một phức hợp gọi là HbA1c (Hemoglobin glycosylat). Một khi glucose gắn kết với hemoglobin, nó sẽ ở đó và tồn tại đến hết đời sống của hồng cầu kéo dài khoảng 3 tháng. Như vậy nếu nồng độ glucose trong máu càng cao thì lượng glucose gắn vào hemoglobin của hồng cầu càng nhiều, và như vậy nồng độ HbA1c cũng sẽ gia tăng. Định lượng HbA1C đánh giá hồi cứu tình trạng đường máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng tốt nếu HbA1c < 6,5%. <ref>[http://www.giaoducsuckhoe.net/article.asp?articleID=6&CategoryID=1&SubCategoryID=4&SpecialtyID=7 Tiểu đường], giaoducsuckhoe</ref>
Các xét nghiệm bổ sung: sau khi được chẩn đoán xác định và làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-2lần/năm) để thăm dò các biến chứng mạn tính và để theo dõi điều trị:
 
===Các xét nghiệm bổ sung===
Các xét nghiệm bổ sung: sauSau khi được chẩn đoán xác định và làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-2lần/năm) để thăm dò các biến chứng mạn tính và để theo dõi điều trị:
 
Khám lâm sàng: lưu ý kiểm tra cân nặng, huyết áp, bắt mạch ngoại biên và so sánh nhiệt độ da, khám bàn chân, khám thần kinh bao gồm thăm dò cảm giác sâu bằng âm thoa. Khám mắt: phát hiện và đánh giá tiến triển bệnh lý võng mạc.
 
Xét nghiệm: đặc biệt lưu ý creatinin, mỡ máu, microalbumin niệu (bình thường < 30&nbsp;mg/ngày) hoặc định lượng protein niệu. Đo điện tim nhằm phát hiện sớm các biểu hiện thiếu máu cơ tim. Soi đáy mắt..
 
Định lượng HbA1 hoặc HbA1c: đánh giá hồi cứu tình trạng đường máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng tốt nếu HbA1c < 6,5%.
 
Trong một số tình huống (không phải là xét nghiệm thường qui):
Hàng 85 ⟶ 92:
 
Peptid C (một phần của pro-insulin): cho phép đánh giá chức năng tế bào bêta tụy.
 
Thử đường trong nước tiểu cũng là một phương pháp được tiến hành tuy nhiên kết quả của phương pháp này không được đánh giá cao bằng những cách thức còn lại.
 
== Điều trị ==