Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận thành Hà Nội (1882)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 36:
==Diễn biến==
[[Hình:Bắc Môn, vết đại bác.JPG|nhỏ|320px|Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: ''25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières "Surprise" et "Fanfare"''; nghĩa là ''Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền "Surprise" và "Fanfare"''.]]
Lực lượng Pháp dưới quyền Trung tá hạm trưởng Henri Rivière được rời Sài Gòn ngày 26 tháng 3 năm 1882 với 2 tàu chiến Drac và Parseval,<ref name=Antonini269>Antonini, Paul, tr. 269</ref> chở theo 2 đại đội thủy bộ binh do thiếu tá Chanu chỉ huy, một toán biệt phái xạ thủ An Nam, 5 tàu sà-lúp máy hơi nước, mỗi binh sĩ được trang bị 200 viên đạn. Trước khi lên đường, Henri Rivière được lệnh phải tuân thủ hiệp định đã ký và chỉ được dùng vũ lực trong trường hợp cần thiết,<ref name=Antonini269/> tuy nhiên người ta cũng hiểu rằng chỉ cần có phản ứng nhỏ của quan lại Việt Nam thì Rivière lập tức hành động.<ref name=Antonini270>Antonini, Paul, tr. 270</ref> Đại đội quân binh Pháp tới Hải Phòng ngày [[2 tháng 4]] rồi dùng tàu sà-lúp đưa quân đến Hà Nội ngày [[3 tháng 4]] năm 1882, rồi đóng quân ở Đồn Thủy hiện đang có 2 đại đội thủy bộ binh đóng giữ dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Berthe de Villers.<ref name=Antonini270/> Tổng số quân Pháp đóng ở ngoài thành Hà Nội lúc này là 600 bộ binh gồm 450 lính thủy quân lục chiến, 130 lính thủy và 20 lính bản xứ.<ref name=Rambaud482Rambaud424>Rambaud, Alfred, tr. 482424</ref>
Được tin quân Pháp động binh, quan binh Bắc Kỳ lo phòng bị chống giữ. Henri Rivière không được tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu tiếp đón long trọng có ý không hài lòng và gợi sự ra bằng cách cho rằng các việc sửa soạn phòng bị của quan binh triều đình ở Bắc Kỳ là có tính cách thù địch và khiêu khích.<ref name=Antonini271>Antonini, Paul, tr. 271</ref>