Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lâm Văn Phát”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:08.7712332
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
| hình=
| tên= Lâm Văn Phát
|ngày sinh= 1920
| ngày mấtsinh= 19981920
| ngày mất= 30-10-1998
|hình=
| nơi sinh= [[Cần Thơ]], [[Việt Nam]]
|chú thích hình=
| nơi mất= [[California]], [[Hoa Kỳ]]
|quốc tịch=
| phục vụ= [[Hình: Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
|biệt danh=
|nơi sinhthuộc= [[CầnHình: ThơFlag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]], [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1949-1975
|nơi mất=[[California]], [[Hoa Kỳ]]
|phục vụcấp bậc= [[Tập tinHình:Flag ofUS-O9 South Vietnaminsignia.svg|22px35px]] [[Việt Nam CộngTrung hòatướng]]
| đơn vị= Quân trường Quang Trung<br/>Sư đoàn 2 và 7 Bộ binh<br>Quân đoàn III<br/>Biệt khu Thủ đô
|thuộc=[[Tập tin:Flag of France.svg|22px]] [[Quân đội Pháp]]<br>[[Tập tin:Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| chỉ huy= Quân đội Liên hiệp Pháp<br/>Quân đội Quốc gia<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
|năm phục vụ=1949-1975
| công việc khác= Tổng trưởng Bộ Nội vụ [[Việt Nam Cộng hòa]]
|cấp bậc=[[Tập tin:US-O9 insignia.svg|22px]] [[Trung tướng]]
|đơn vị=
|chỉ huy=
|tham chiến=
|khen thưởng=
|công việc khác= Tổng trưởng Nội vụ [[Việt Nam Cộng hòa]]
}}
 
'''Lâm Văn Phát''' ([[1920]]-[[1998]]), nguyên một tướng lĩnh gốc Thiết giáp của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Trung tướng]]. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân của Quân đội Pháp được mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ông là một sĩ quan cao cấp đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn 1963 - 1965 và là Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là quân nhân cuối cùng được thăng Trung tướng vào nhữngthời ngàyđiểm cuốisau cùng của chính thể Việt Nam Cộng hòa.
 
==XuấtTiểu thânsử & bước đầu con đường binhBinh nghiệp==
Ông sinh năm 1920 tại Cần Thơ. Có tài liệu ghi ông tên thật là '''Lâm Văn Phất''' hoặc '''Phắc'''. Cha ông là ông Lâm Văn Phận<ref name="lamvanphat">[http://antg.cand.com.vn/vi-VN/hosomat/2007/1/77195.cand Tướng Sài Gòn Lâm Văn Phát - Chuyên gia đảo chính]</ref> là một nhà giáo, do đó ông cũng có một nền giáo dục từ nhỏ và học đếnhết banchương trình Trung học phổ thông và tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần ''Part II) tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Lực lượng [[Thanh niên Tiền phong]] và tham gia cướp chính quyền tại Cần Thơ. Sau khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, ông bị buộc phải trở về Cần Thơ và tiếp tục học.
 
Sau khi tốt nghiệp Tú tài, thángTháng 5 năm 1946 ông được người Pháp trưng dụng nhập ngũ vào Quân đội Pháp và theo học khoákhóa 1 [[Nguyễn Văn Thinh]] Trườngtại trường Võ bị Liên quân Viễn đông của Pháp tại [[Đà Lạt]] ''(khai tốtgiảng ngày 15-7-1946, mãn khóa ngày 1-7-1947). Tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc [[Thiếu úy]] ngày 2 tháng 7 năm 1947. Cùng tốt nghiệp khóa này với ông có một số sĩ quan trẻ người Việt khác như [[Nguyễn Khánh]], [[Trần Thiện Khiêm]], [[Dương Văn Đức]]..., những người về sau có vai trò quan trọng trong sự nghiệp của ông.
 
Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, ông đào ngũ vào chiến khu cùng một số bạn học, từng làm đến Trung đội trưởng [[Vệ quốc Đoàn]] ở Khu 8<ref>[http://www.giaoduc.edu.vn/news/xa-hoi-680/co-y-ta-cua-nguoi-dep-tay-do-ky-1-hon-ca-ruot-thit-161585.aspx Cô y tá của Người đẹp Tây Đô: Kỳ 1: Hơn cả ruột thịt]</ref>. Một thời gian sau, ông trốn về lại Cần Thơ, ngụ tại nhà chị ruột [[Lâm Thị Phấn]]. Do sự bảo lãnh của người tình của bà Phấn, ông được bí mật đưa sang Pháp học nghề cơ khí. Không lâu sau, ông bị phát giác thân phận và quá khứ đào ngũ, nhưng nhờ sự can thiệp từ các mối quan hệ của chị ruột, ông không bị đưa ra xét xử, đổi lại phải tiếp tục đi học và phải trở về tiếp tục phục vụ cho quân đội Pháp.
 
==Phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam==
Sau khi [[Quốc gia Việt Nam]] được thành lập, năm 1950, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử đi du học lớp căn bản Thiết giáp tại Trường Thiết giáp Kỵ binh Saumur Pháp, nhằm đào tạo lực lượng sĩ quan thiết giáp nòng cốt cho [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]. Tháng 10 năm 1951, ông về nước và được cử làm Chỉ huy phó [[Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức]], đến cuối năm, được chuyển sang làm Đại đội trưởng Đại đội Thám thính đồn trú tại [[Gia Lâm]] ([[Hà Nội]]).
 
Tháng 5 năm 1952, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được điều động về công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam vừa được thành lập. NămQua năm 1953, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]], và được cử làm Chánh văn phòng cho tướng [[Nguyễn Văn Hinh]] Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1954, được thăng [[Trung tá]] tại nhiệm.
 
== Sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa==
Sau khi chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] được thành lập, ông tiếp lạitục phục vụ trong [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]]. Đầu năm 1956, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quán Tre ''(tiền thân của Trung tâm Huấn luyện quốc gia Quang Trung) đầu năm 1956''. Đến năm 1957, được chuyển sang làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến. Năm 1958, ông được điều động vào chức vụ Tổng thanh tra Tổng Nha Bảo an và Dân vệ trực thuộc Phủ Tổng thống.<ref name="lamvanphat"/>
 
Năm 1959, ông được cử đi học tại Trường Sĩ quan Chỉ huy và Tham mưu (''US Army Command and General Staff College'') Fort Leavenworth tại [[Hoa Kỳ]] và tốt nghiệp 1 năm sau đó. SauNăm 1960, sau khi về nước năm 1960, ông được thăng cấp [[Đại tá]], ông được chỉ định vào chức vụ Tổng Giám đốc Bảo an và Dân vệ thay thế Đại tá [[Đặng Văn Quang]] được cử đi làm Tham mưu trưởng Quân đoàn I. Tháng 6 năm 1961, ông được điềubổ đinhiệm làmchức vụ Tư lệnh [[Sư đoàn 2 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 2 Bộ binh]],. đếnĐến tháng 6 năm 1963, đượcnhận bổlệnh nhiệmbàn làmgiao Sư đoàn 2 lại cho Đại tá Trương Văn Xương, sau đó đi nhận chức Tư lệnh phó [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III]] dưới quyền Thiếu tướng [[Tôn Thất Đính]].
 
==Bốn lần tham gia đảo chính==
Là một trong những sĩ quan cao cấp của Quân đội Quốc gia Việt Nam ở lại và tham gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa vừa thành lập, tuy nhiên suốt thời gian từ 1955-1963, ông chỉ được phân công công tác ở các chức vụ không có thực quyền. Điều này có lẽ do thái độ thiếu tin cậy với quá khứ đào ngũ nhiều lần cũng như quan hệ gia đình của ông của Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Từ đó ông có tâm lý bất mãn và trở thành một trong những sĩ quan cao cấp đầu tiên tham gia âm mưu đảo chính đứng đầu bởi tướng [[Dương Văn Minh]] và [[Trần Văn Đôn]]. Khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảoĐảo chính 1-11-1963]] nổ ra, ông chỉ huy một bộ phận thiếtThiết giáp bao vây [[dinhDinh Độc Lập]] và đượcngày các2-11-1963 tướngông lĩnhđược cầmvinh đầuthăng đảo chính thănghàm [[Thiếu tướng]] ngày [[2 tháng 11]] năm 1963.
 
Sau khi đảo chính thành công, ngày 2-12-1963 ông được cửbổ đinhiệm làmchức Tư lệnh [[Sư đoàn 7 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 7 Bộ binh]] thay thế [[Đại tá]] [[Phạm Văn Đổng|Phạm Văn Đỗng]]. Không hài lòng với vai trò này, ông bí mật tham gia ủng hộ các tướng [[Nguyễn Khánh]], [[Trần Thiện Khiêm]] thực hiện [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnh lý]], phế truất các tướng lĩnh [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Mai Hữu Xuân]], [[Lê Văn Kim]] với lý do trung lập. Sau chỉnh lý, ngày 2-2-1964 ông được cửbổ nắmnhiệm chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III]], đến ngày 7 tháng 4 năm 1964, bắtông đầuđược tham chính với chức vụ Tổng trưởng Bộ Nội vụ.
 
Mặc dù vậy, với tham vọng độc tài của tướng [[Nguyễn Khánh]], ông nhanh chóng có mâu thuẫn xung khắc với người bạn học cũ. Ngày 9 tháng 9, ông từ nhiệm chức vụ Tổng trưởng. Chỉ 4 ngày sau, ngày [[13 tháng 9]] năm 1964, ông cùng với [[Trung tướng]] [[Dương Văn Đức]] dẫn lực lượng [[Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn IV]] kéo về [[Sài Gòn]] thị uy, dự định lật đổ chính phủ Nguyễn Khánh để nắm quyền nhưng bất thành do thiếu kiên quyết và thiếu sự ủng hộ của nhiều thế lực khác nhau. Ngày [[15 tháng 9]], tướng Nguyễn Khánh trở về Sài Gòn, tuyên bố cách chức và buộc giải ngũ tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát và một số sĩ quan cao cấp chỉ huy đảo chính. Tuy vậy, không ai trong số họ bị bắt giữ và vẫn được tự do.
 
Ngày 1 tháng 11 năm 1964, tướng [[Nguyễn Khánh]] thành lập chính phủ dân sự do ông [[Trần Văn Hương]] làm [[Thủ tướng]], ông [[Phan Khắc Sửu]] làm [[Quốc trưởng]]. Ngày 19 tháng 2 năm 1965, một lần nữa tướng Lâm Văn Phát đứng ra cầm đầu cuộc đảo chính do [[Đại tá]] [[Phạm Ngọc Thảo]] tổ chức. Lần này, cuộc đảo chính được tổ chức chặt chẽ hơn và phần nào đạt được mục đích tước quyền lực tướng Nguyễn Khánh. Tuy vậy, nhóm các tướng trẻ do [[Nguyễn Chánh Thi]], [[Nguyễn Văn Thiệu]], [[Nguyễn Cao Kỳ]] cầm đầu chống lại đảo chính. Ngày 20 tháng 2, Hội đồng các tướng lãnh họp ở [[Biên Hòa]], đã cử [[Trung tướng]] [[Nguyễn Văn Thiệu]] nắm chức [[Chủ tịch Hội đồng Quân lực]] và đưa [[bác sĩ]] [[Phan Huy Quát]] lên làm [[Thủ tướng]] thay ông [[Trần Văn Hương]]. Hội đồng cũng cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Cuộc đảo chính tan rã<ref>Có tài liệu cho rằng bộ chỉ huy đảo chính đã dự định tổ chức đảo chính lần thứ 2 vào ngày 20 tháng 6 năm 1965, tuy nhiên dự định này nhanh chóng bị phát hiện và bị vô hiệu hóa. Các thành viên chủ chốt bị truy nã và phải lần trốn.</ref>
Hàng 50 ⟶ 45:
Cuối tháng 6 năm 1965, Tòa án Quân sự tuyên bố tử hình vắng mặt 4 sỹ quan chủ chốt của cuộc đảo chính. Tuy vậy, trong khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và chết bí ẩn, thì tướng Phát ra trình diện và vẫn được tự do, dù bị tước quân hàm, cấm đảm nhiệm mọi chức vụ và bị buộc phải giải ngũ.
 
==Vị tư lệnh cuối cùng Biệt khu thủThủ đô cuối cùng==
Suốt thời gian 10 năm, tướng Phát sống thầm lặng. Tuy nhiên, vào những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, ông lại xuất hiện trong vai trò cựu tướng lĩnh trong [[Lực lượng thứ 3]] do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông tham dự lễ ra mắt của chính phủ Tổng thống Dương Văn Minh và ngày hôm sau [[29 tháng 4]] năm 1975, ông được Tổng thống Dương Văn Minh vinh thăng cấphàm [[Trung tướng]] cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay tướng [[Nguyễn Văn Minh]] vừa đào nhiệm<ref>"Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô" - [[Phạm Bá Hoa]]</ref>.
 
Trong những giờ cuối cùng, ông chỉ huy các lực lượng còn lại để phòng thủ Sài Gòn với hy vọng có thể đạt được phần nào lợi thế để đàm phán. Tuy nhiên, đến trưa [[30 tháng 4]] năm 1975, ông được lệnh buông súng từ tổng thống Dương Văn Minh và giữ nguyên vị trí chờ bàn giao.<ref>[http://sggp.org.vn/chinhtri/2009/4/189094/ Trung tướng Nguyễn Văn Chia (''nguyên Tư lệnh Quân khu 7''): Cảm hóa kẻ thù bằng lòng nhân đạo]</ref>.
 
==1975==
Sau nămngày 197530 tháng 4, ông phảibị đưa đi tập trung [[học tập cải tạo]] hơn 10 năm. Sau đó ông được bảo lãnh xuất cảnh theo [[chương trình Ra đi có Trật tự|diện HO]] và được định cư tại [[Hoa Kỳ|Mỹ]].
 
Ông qua đời ngày 30 tháng 10 năm 1998 tại [[Santa Ana]], [[California]], Hoa Kỳ. Thọ 78 tuổi.
Hàng 62 ⟶ 58:
 
==Gia đình==
ChaThân ông tênphụôngcụ Lâm Văn Phận, nguyên là một nhà giáo tại Cần Thơ. Sau năm 1945, ông tham gia Việt Minh và gia nhập [[Đảng Lao động Việt Nam]] và từng có thời gian giữ chức Chủ tịch Ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc và mất ở đó.<ref name="lamvanphat"/>
 
Tướng Lâm Văn Phát là người con thứ 2 trong gia đình. Chị lớn của ông là [[Lâm Thị Phấn]], sinh năm 1918, có tài liệu ghi được gả cho [[Công tử Bạc Liêu]] [[Trần Trinh Huy]], là một tình báo viên nổi tiếng của Việt Minh, Thiếu tá tình báo [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]], [[Anh hùng Lực lượng Vũ trang]]. Bà cũng là người được Ban binh vận giao nhiệm vụ vận động tướng Phát đầu hàng sớm vào tháng 4 năm 1975 nhưng không thành công. Cuộc đời bà cũng được dựng thành phim với nhân vật Bạch Cúc trong phim "Người đẹp Tây Đô" của đạo diễn [[Lê Cung Bắc]], do diễn viên [[Việt Trinh]] thủ vai Bạch Cúc.<ref name="lamvanphat"/>
Hàng 72 ⟶ 68:
 
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
 
{{thời gian sống|1920|1998}}
 
[[Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Cần Thơ]]
[[Thể loại:Sinh thập kỷ 1920]]