Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Estrogen”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TCCB123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
TCCB123 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 49:
Ngày nay, người ta biết tác dụng của nội tiết tố sinh dục lên mô vú một phần là qua trung gian các yếu tố tăng trưởng. Một số yếu tố tăng trưởng đã được xác định có thể là nguyên nhân gây ra những biến đổi mô vú bình thường thành ác tính và kéo dài quá trình ung thư hóa. Thụ thể của mô tuyến vú với estrogen và progesteron và một số yếu tố tăng trưởng cũng đã được nhận dạng. Trong đó thụ thể với estrogen và progesteron rất có giá trị trong việc đánh giá tiên lượng bệnh nhân, chọn lựa phương pháp điều trị. Người ta nhận thấy có khoảng 2/3 các bệnh nhân có thụ thể với estrogen dương tính, và ½ số đó có đáp ứng khi điều trị bằng nội tiết tố ở chỗ kích thước khối bướu thu nhỏ.
{{thể loại Commons|Estrogens}}
== Điều trị hóc môn==
== Biệt dược có liên quan ==
Estrogen và hormone khác được chỉ định cho phụ nữ sau mãn kinh để ngăn ngừa loãng xương cũng như điều trị các triệu chứng của mãn kinh như bốc hoả, khô âm đạo, nước tiểu không kiểm soát căng thẳng, cảm giác lạnh lẽo, chóng mặt, mệt mỏi, khó chịu, và đổ mồ hôi. Gãy xương của cột sống, cổ tay, hông và giảm 50-70% và mật độ xương cột sống tăng ~ 5% ở những phụ nữ được điều trị bằng estrogen trong vòng 3 năm kể từ khi khởi đầu của thời kỳ mãn kinh và trong vòng 5-10 năm sau đó.
 
Trước khi những nguy hiểm cụ thể của conjugated equine estrogens đã được hiểu rõ, điều trị tiêu chuẩn là 0.625 mg / ngày của conjugated equine estrogens (như Premarin). Tuy nhiên, có rủi ro liên quan với liệu pháp conjugated equine estrogens . Trong số những phụ nữ sau mãn kinh lớn tuổi nghiên cứu như là một phần của Tổ chức Sáng kiến ​​sức khỏe phụ nữ (WHI), một đường uống conjugated equine estrogens bổ sung đã phát hiện thấy có liên quan với tăng nguy cơ đông máu. Các nghiên cứu WHI sử dụng một loại estrogen bổ sung, uống một liều cao conjugated equine estrogens (Premarin một mình và với medroxyprogesterone acetate như Prempro).
 
Trong một nghiên cứu của NIH, estrogens este hóa đã được chứng minh là không gây ra nguy cơ cho sức khỏe như conjugated equine estrogens. Liệu pháp thay thế hormone có tác dụng thuận lợi về mức độ cholesterol trong huyết thanh, và khi bắt đầu ngay sau khi mãn kinh có thể làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch, mặc dù giả thuyết này vẫn chưa được thử nghiệm trong các thử nghiệm ngẫu nhiên. Estrogen dường như có tác dụng bảo vệ trên xơ vữa động mạch: nó làm giảm LDL và triglycerides, nó làm tăng mức độ HDL và có đặc tính giãn mạch nội mô cộng với một thành phần chống viêm.
 
Nghiên cứu đang được tiến hành để xác định rủi ro của estrogen bổ sung sử dụng là như nhau cho tất cả các phương pháp sử dụng. Cụ thể, estrogen bôi tại chỗ có thể có một quang phổ khác nhau của các tác dụng phụ hơn so với khi dùng đường uống, và estrogen thẩm thấu qua da không ảnh hưởng đến đông máu như chúng được hấp thu trực tiếp vào hệ tuần hoàn, tránh chuyển hóa lần đầu ở gan. Tuyến đường này của chính quyền là như vậy ưa thích ở phụ nữ có tiền sử bệnh thrombo-tắc mạch.
 
Estrogen cũng được sử dụng trong điều trị teo âm đạo, hypoestrogenism (như là kết quả của suy sinh dục, thiến, hoặc suy buồng trứng tiên phát), vô kinh, đau bụng kinh, và oligomenorrhea. Estrogen cũng có thể được sử dụng để đàn áp cho con bú sau khi sinh con.
 
==Tham khảo==