Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Tăng Bí”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
n clean up, replaced: → (9) using AWB
Dòng 4:
Ông sinh năm 1883 tại làng [[Đông Ngạc]], huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, [[hà Đông (tỉnh)|tỉnh Hà Đông]], nay thuộc quận [[Bắc Từ Liêm]], thành phố [[Hà Nội]]. Thân phụ ông là Hoàng Hy Thuần, đời thứ 4 của gia tộc họ Hoàng Đông Ngạc, tính từ cụ tổ Hoàng Nguyễn Thự.
 
Đỗ [[Cử nhân (định hướng)|Cử nhân]] với vị trí Á nguyên (đứng thứ nhì) tại Trường thi Nam Hà năm [[1906]] và tham gia thành lập phong trào [[Đông Kinh Nghĩa Thục|Đông Kinh nghĩa thục]] năm [[1907]], cùng [[Nguyễn Quyền]] đi khắp nơi hô hào, diễn thuyết để thức tỉnh lòng yêu nước trong dân chúng. Ông còn tham gia dạy học, diễn thuyết, soạn sách giáo khoa, lập thương nghiệp lấy tiền trợ cấp [[Phong trào Đông Du|Phong trào Đông du]].
 
Sau vụ [[Hà Thành đầu độc|Hà thành đầu độc]], trường Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông cũng bị chính quyền thực dân [[Pháp]] bắt và đưa về giam lỏng tại [[Huế]]. Năm [[1910]], ông tiếp tục thi Hội, đỗ [[Phó bảng]], nhưng không ra làm quan, mà mở trường tư dạy học, viết báo "Trung Bắc tân văn" và soạn một số vở tuồng kêu gọi lòng yêu nước.
Dòng 14:
==Tác phẩm==
===Tuồng===
* Đệ bát tài tử Hoa Tiên kí (tuồng). Hà Nội, Mạc Đình Tư, 1913.
* Nghĩa nặng tình sâu (tuồng Mị Châu Trọng Thủy) Hà Nội, nhà in Nghiêm Hàm, 1926
* Thù chồng nợ tước (tuồng Trưng Trắc Trưng Nhị). Hà Nội, Tân Dân xuất bản, 1927.
 
===Dịch===
Dòng 22:
Ông còn dịch một số tiểu thuyết Pháp ra tiếng Việt như:
 
* Paul et Virgine. La chaumière indienne của Bernadin de Saint Pierre.
* Le comte de Monte Cristo của Alexandre Dumas, nhưng không có điều kiện xuất bản.
 
* Le comte de Monte Cristo của Alexandre Dumas, nhưng không có điều kiện xuất bản.
Trong thời gian làm báo Trung Bắc tân văn, ông có dịch đặng bộ Sử Trung Quốc thời Xuân Thu, ký tên là Tiểu Mai.
==Gia đình==