Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kênh Vĩnh Tế”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thị xã Châu Đốc thành thành phố Châu Đốc Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
n clean up, replaced: → (351), → (195) using AWB |
||
Dòng 1:
{{Thông tin công trình xây dựng
| tên
| tên gốc
| hình
| ghi chú hình
| loại bản đồ =
| vĩ |
|
|
| tên cũ =
|
▲| phong cách =
▲| hệ thống kết cấu =
▲| địa điểm =
| quốc gia =[[Việt Nam]]
▲| thành phố =
|
▲| khách hàng =
| sử dụng =
▲| chủ đầu tư =[[nhà Nguyễn]]
|
|
|
|
| khánh thành =
▲| hoàn thành =5 ([[âm lịch]]) năm [[1824]]
|
|
| phá
▲| kích thước =Khoảng 87 [[Kilômét|km]] x 30 [[mét|m]] x 2,55 [[m]]
▲| chiều cao =
▲| đường kính =
▲| kích thước khác =
| diện tích
▲| diện tích sàn =
| chi phí xây dựng =
▲| nhà thầu chính =
| chi phí
| kiến trúc sư =
| hãng kiến trúc
|
| kỹ sư kết
| kỹ sư
| kỹ sư
▲| nhà thiết kế khác =
▲| giám sát chất lượng =
| kiến trúc sư trùng tu =
▲| giải thưởng =
| hãng kiến trúc
|
| kỹ sư kết cấu trùng tu
| kỹ sư thiết kế dịch vụ trùng tu =
| kỹ sư công chính trùng tu
| nhà thiết kế khác trùng tu
| giám sát chất lượng trùng tu
| giải thưởng trùng tu
| chú thích
}}
[[Tập tin:AnGiang1.jpg|nhỏ|phải|Kênh Vĩnh Tế và vùng biên giới với [[Campuchia|Cao Miên]] của 2 [[hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]], [[An Giang]] thời [[nhà Nguyễn]] độc lập và thời Pháp xâm lược [[Nam Kỳ]].]]
Dòng 83:
:-Số lượng quân và dân phu: lấy ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh và [[Định Tường]] hơn 39.000 dân và quân Việt. Quân và dân [[Chân Lạp]] hơn 16.000 người. Tổng cộng hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên hoạt động <ref>Ghi theo Nguyễn Văn Hầu (tr. 193). Châu Hữu Hầu (''Kỷ yếu'', tr. 57) ghi khác: Binh và dân Việt: 35.000 người. Binh và dân Chân Lạp: 10.000 người. Tổng cộng: 45 ngàn người.</ref>
Đến [[tháng tư|tháng 4]] ([[âm lịch]]) năm [[1823]], vua [[Minh Mạng]] lại cho thôi đào kênh Vĩnh Tế, vì ''"nhơn đến mùa hạ, mà việc đào sông chỉ còn hơn 1.700 [[trượng]]"''<ref>Trích trong
*'''Giai đoạn 3''' (tức giai đoạn cuối): Từ [[tháng hai|tháng 2]] (âm lịch) năm [[1824]] đến [[tháng năm|tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[1824]]. Sách ''Quốc triều sử toát yếu'', phần Chánh biên, chép: ''"Tháng 2, lại đào sông Vĩnh Tế. Năm ngoái còn 1.700 trượng, nay lại đào, đến tháng 5 mới xong, (cho) dựng bia làm ghi"'' <ref>Trích trong ''Toát yếu'', phần Chánh biên (bản dịch, tr. 163).</ref>
Dòng 111:
Đào xong, ''Đại Nam nhất thống chí'', phần ''An Giang tỉnh'', một lần nữa ghi nhận là ''Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân mua bán đều được tiện lợi vô cùng.''
Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn <ref>[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=15ECaWQ9MTE0MDEmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWs=&page=2
Nên ca dao có câu:
Dòng 136:
:''Cảnh trời thanh vui nhộn cùng nhau.''
:''Hằng năm cúng tế dồi dào,''
:''Tràn trề lễ trọng dám nào để vơi...''<ref>Chép theo [[Nguyễn Văn Hầu]],
==Với người Khmer==
|