Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Từ điển Việt–Bồ–La”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 81:
Từ điển Việt–Bồ–La là một thành quả lớn cho việc san định [[chữ Quốc ngữ]]. Phải hơn một thế kỷ sau nữa, vào năm [[1783]] mới có một cuốn tự điển chữ Quốc ngữ thứ nhì. Cuốn này do giám mục [[Pigneau de Behaine|Bá Đa Lộc]] soạn nhưng chưa kịp in. Sau đó, bản thảo được giám mục [[Jean-Louis Taberd]] dùng để soạn cuốn từ điển ''[[Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị]]'' in năm [[1838]] ở [[Serampore]], Ấn Độ, đưa chữ Quốc ngữ tiến thêm một bước dài.<ref name="W2584"/>
 
Mặc dù có chữ Quốc ngữ, việc truyền giáo của các giáo sĩ Tây phương tiếp tục chủ yếu dùng song hành [[chữ Nôm]] và [[Latinh|tiếng Latinh]] trong các [[ấn phẩm]] tôn giáo trong thời gian 200 năm từ [[thế kỷ 17]] đến [[thế kỷ 19]]. Chỉ sau khi [[người Pháp]] mởcủng rộngcố sự[[Liên hiệnbang diệnĐông củaDương]] họ nền [[Việtcai Nam]]trị thành nếp thì chữ Quốc ngữ mới đạt ưu thế làm văn tự chính thức trong [[LiênViệt bang Đông DươngNam]].<ref>{{Chú thích sách|title=Vietnamese tradition on trial, 1920–1945|first=David G|last=Marr|page=145|url=http://books.google.com/books?id=FkcZ_nGkW-oC&pg=PA145&dq=%22Dictionarium+Annamiticum+Lusitanum+et+Latinum%22&lr=}}</ref>
 
==Xem thêm==