Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Vỹ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: clean up, replaced: {{reflist → {{tham khảo using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
{{chú thích trong bài}}
| hình=
'''Nguyễn Văn Vỹ''' (1916-1981) là một cựu tướng lĩnh và chính khách [[Việt Nam Cộng hòa]]. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm giữ chức Tổng tham mưu trưởng [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] (1954-1955), về sau từng giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng [[Việt Nam Cộng hòa]] (1967-1972).
| tên= Nguyễn Văn Vỹ
| ngày sinh= 16-1-1916
| nơi sinh= Hà Nội, VN
| ngày mất= 1981
| nơi mất= Pháp
| thuộc= [[Hình: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1940-1973
| cấp bậc= [[Hình: US-O9 insignia.svg|35px]] [[Trung tướng]]
| đơn vị= Bộ Tổng tham mưu<br/>Trung tâm Huấn luyện Quang Trung<br/>Trường Bộ binh Thủ Đức
| chỉ huy= Quân đội Pháp<br/>Quân đội Quốc gia<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Tổng trưởng Quốc phòng
}}
 
'''Nguyễn Văn Vỹ''' (1916-1981), nguyên là một cựu tướng lĩnh và chính kháchtrong [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Trung tướng]]. Ông xuất thân từ Trường Võ bị do Quân đội Pháp mở ra ở Bắc Việt. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm giữchức chứcvụ Tổng tham mưu trưởng [[Quân đội Quốc gia, Việtcũng Nam]]từng (1954-1955),giữ vềchức sauvụ từngTổng giữtư lệnh Quân đội thời Đệ nhị Cộng hòa. Sau ông tham chính và được bổ nhiệm chức Tổng trưởng Bộ Quốc phòng [[trong Chính phủ Việt Nam Cộng hòa]]. (1967-1972).
==Thân thế & bước đầu binh nghiệp==
Ông sinh ngày [[16 tháng 1]] năm 1916 tại [[Hà Nội]]. Thuở nhỏ, ông là học sinh trường [[Albert Sarraut]] tại Hà Nội, năm 1937, tốt nghiệp Tú Tài toàn phần Pháp. Sau đó, ông là sinh viên Đại học Luật Hà Nội 3 năm, từ 1937 đến 1940.
 
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Năm 1940, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, theo học khoá 1 [[Trường Võ bị Tông]] [[Sơn Tây]]. Năm 1941, tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]]. Năm 1942, được thăng [[Thiếu úy]], Trung đội trưởng thuộc [[Trung đoàn 4 Bộ binh Bắc Kỳ]]. Năm 1945, thăng lên [[Trung úy]], Trung đội trưởng thuộc [[Trung đoàn 19 Bộ binh Viễn chinh thuộc địa]].
Ông sinh ngày [[16 tháng 1]] năm 1916 tại [[Hà Nội]]. Thuởtrong nhỏ,một gia đình trung lưu. ôngÔng là học sinh trường [[Albert Sarraut]] tại Hà Nội,. nămNăm 1937, tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằngTàitài toàn phần Pháp(Part II). Sau đó, ôngtheo là sinh viênhọc Đại học Luật tại Hà Nội 3 năm, từ 1937 đến 1940.
 
NămĐầu năm 1940, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, theo học khoá 1 Trường [[Trường bịBị Tông]] [[Sơn Tây]]. NămMột 1941,năm sau tốt nghiệp ra trường với cấp bậc [[Chuẩn úy]] Bộ binh. NămQua năm 1942, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]], và được cử làm Trung đội trưởng thuộc [[Trung đoàn 4 Bộ binh Bắc Kỳ]]. Năm 1945, thăng lên [[Trung úy]], Trung đội trưởng thuộc [[Trung đoàn 19 Bộ binh Viễn chinh thuộc địa]].
Ngày [[9 tháng 3]] năm 1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, ông vượt biển, đào thoát sang Trung Quốc, gia nhập lực lượng lưu vong của tướng [[Marcel Alessandri]]. Năm 1946, được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng [[Liên đội Biệt kích Trinh sát hỗn hợp Việt-Pháp]], trú đóng tại Nam Trung Quốc.
 
Đến năm 1945, ông được thăng cấp lên [[Trung uý]], chuyển sang làm Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 19 Bộ binh Viễn chinh thuộc địa. Ngày [[9 tháng 3]] năm 1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, ông vượt biển, đào thoát sang Trung Quốc, gia nhập lực lượng lưu vong của tướng [[Marcel Alessandri]]. Năm 1946, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng [[Liên đội Biệt kích Trinh sát hỗn hợp Việt-Pháp]], trú đóng tại Nam Trung Quốc.
Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông cùng đơn vị về Việt Nam. Năm 1947, thăng [[Đại úy]], [[Đại đội trưởng]] Đại đội 4 Biệt kích thuộc [[Tiểu đoàn Lưu động Đông Dương]] đóng tại vùng Việt Bắc. Sau đó, toàn Đại đội di học Nhảy dù và được đổi tên là Đại đội Nhảy dù Bắc Việt. Năm 1949, Đại đội trưởng Đại đội 3 Nhảy dù Đông dương, thuộc [[Tiểu đoàn 3 Biệt kích Nhảy dù]], tham gia nhiều chiến dịch tại miến Bắn Việt Nam.
 
Năm 19511947, thăngsau [[Thiếukhi tá]],Pháp dutái họcchiếm khoáĐông ThamDương, mưuông caotrở cấpvề tạiViệt Paris,Nam Pháp, về nước được thăng cấp [[TrungĐại úy]]., Nămgiữ 1952,chức chuyểnĐại sangđội ngạchtrưởng [[QuânĐại đội Quốc4 giaBiệt Việtkích Nam]],thuộc đượcTiểu thăngđoàn cấpLưu Đạiđộng tá,Đông đượcDương bổđóng nhiệmtại làmvùng ChánhViệt Bắc. phòngSau Quốcđó, trưởng [[Bảotoàn Đại]] thayđội thếdi Thiếuhọc tướngNhảy [[Nguyễn Văn Hinh]]được sangđổi làmtên Tổng thamĐại mưuđội trưởngNhảy Quân đội Quốc giaBắc Việt. Nam.
 
Đầu năm 1949, chuyển qua làm Đại đội trưởng Đại đội 3 Nhảy dù Đông Dương, thuộc [[Tiểu đoàn 3 Biệt kích Nhảy dù]], ông đã tham gia nhiều chiến dịch tại miến Bắc Việt Nam.
Năm 1954, ông là Tư lệnh Vùng Duyên hải, kiêm Phụ tá quân sự [[Thủ hiến Trung Việt]]. Ngày [[1 tháng 7]] năm 1954, ông được thăng [[Thiếu tướng]], [[Tham mưu trưởng]] Võ phòng [[Quốc trưởng]] [[Bảo Đại]].
 
==Quân đội Quốc gia Việt Nam==
==Vị Tổng tham mưu trưởng trên giấy==
Ngày [[19 tháng 11]] năm 1954, ông được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm quyền [[Tổng tham mưu trưởng]] thay Trung tướng [[Nguyễn Văn Hinh]] sang Pháp trình diện Quốc trưởng. Tuy nhiên, đến ngày [[1 tháng 12]] Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] lại ký Nghị định bổ nhiệm tân Thiếu tướng [[Lê Văn Tỵ]] làm Tổng tham mưu trưởng, dù không được Quốc trưởng đồng ý phê duyệt.
 
Đến đầu năm 1951, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử đi du học khoá Tham mưu cao cấp tại Paris, Pháp. Tháng 6 cùng năm mãn khoá về nước ông được thăng cấp [[Trung tá]].
Mặc dù vậy, dưới áp lực của các sĩ quan cao cấp ủng hộ Thủ tướng Diệm, ông buộc phải bàn giao chức vụ Tổng tham mưu trưởng cho tướng Tỵ. Để xoa dịu, Thủ tướng Diệm đã bổ nhiệm ông giữ chức Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Tham mưu trưởng Võ phòng Quốc trưởng. Tuy vậy, đến ngày [[28 tháng 4]] năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại từ Cannes gửi điện văn cho Thủ tướng Diệm biết là đã đề cử tướng Vỹ làm Tổng Tham mưu trưởng. Ngày [[30 tháng 4]] năm 1955, ông cùng Đại tá Nguyễn Tuyên, Chỉ huy trưởng Ngự lâm quân Võ phòng Quốc trưởng, từ Đà Lạt vào Sài Gòn để yêu cầu tướng Tỵ phải bàn giao lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng. Trong buổi họp tại [[dDinh Độc Lập]] chiều cùng ngày, ông đã bị nhà văn [[Nhị Lang]] rút súng đe dọa.<ref>[[Trần Văn Đôn]], "Việt Nam nhân chứng", tr. 125</ref>
 
Đầu năm 1952, ông được Bộ Quốc phòng Pháp điều chuyển chuyển sang [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]. Sau khi sát nhập ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được bổ nhiệm làm Chánh võ phòng Quốc Trưởng Bảo Đại thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Hinh]] được Quốc trưởng chỉ định lên làm Tổng tham mưu trưởng Quân đội.
 
NămThượng tuần tháng 3 năm 1954, ông được cử giữ chức Tư lệnh [[Vùng Duyên hải,Hải]] kiêm Phụ tá quân sự [[Thủ hiến Trung Việt]]. NgàyTháng [[1 tháng7 7]]cùng năm 1954, ông được vinh thăng hàm [[Thiếu tướng]], tái bổ nhiệm chức [[Tham mưu trưởng]] Võ phòng [[Quốc trưởng]] [[Bảo Đại]].
 
==Vị Tổng tham mưu trưởng trên giấy==
 
Ngày [[19 tháng 11]] năm 1954, ông được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm quyền [[Tổng tham mưu trưởng]] thay Trung tướng [[Nguyễn Văn Hinh]] được Quốc trưởng triệu hồi sang Pháp trình diện Quốc trưởng. Tuy nhiên, đến ngày [[1 tháng 12]] Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] lại ký Nghị định bổ nhiệm tân Thiếu tướng [[Lê Văn Tỵ]] làm Tổng tham mưu trưởng, dù không được Quốc trưởng đồng ý phê duyệt.
 
Mặc dù vậy, dưới áp lực của các sĩ quan cao cấp ủng hộ Thủ tướng Diệm, ông buộc phải bàn giao chức vụ Tổng tham mưu trưởng cho tướng Tỵ, Để xoa dịu, Thủ tướng Diệm đã bổ nhiệm ông giữ chức Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Tham mưu trưởng Võ phòng Quốc trưởng.
Mặc dù vậy, dưới áp lực của các sĩ quan cao cấp ủng hộ Thủ tướng Diệm, ông buộc phải bàn giao chức vụ Tổng tham mưu trưởng cho tướng Tỵ. Để xoa dịu, Thủ tướng Diệm đã bổ nhiệm ông giữ chức Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Tham mưu trưởng Võ phòng Quốc trưởng. *''Tuy vậy, đến ngày [[28 tháng 4]] năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại từ Cannes gửi điện văn cho Thủ tướng Diệm biết là đã đề cử tướngTướng Vỹ làm Tổng Tham mưu trưởng. Ngày [[30 tháng 4]] năm 1955, ông cùng Đại tá Nguyễn Tuyên, Chỉ huy trưởng Ngự lâm quân Võ phòng Quốc trưởng, từ Đà Lạt vào Sài Gòn để yêu cầu tướng Tỵ phải bàn giao lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng. Trong buổi họp tại [[dDinhDinh Độc Lập]] chiều cùng ngày, ông đã bị nhà văn [[Nhị Lang]] rút súng đe dọa.<ref>[[Trần Văn Đôn]], "Việt Nam nhân chứng", tr. 125</ref>
 
Sau biến cố này, ông nhanh chóng trở về Đà lạt, từ đó bay sang [[Cambodia]] rồi sang Pháp sống lưu vong. Tại Sài Gòn, ngày [[12 tháng 5]] năm 1955, Thủ tướng Diệm bãi chức Tổng Thanh tra Quân đội của ông và sát nhập lực lượng Ngự lâm quân vào Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ngày [[21 tháng 5]] năm 1955, ông cùng Đại tá Nguyễn Tuyên bị đưa ra Tòa án Quân sự về tội phá hoại an ninh và phản bội quốc gia nhưng trước đó, hai ông đã sang Pháp.
 
==Trở lại Quân đội==
==Tướng lĩnh và chính khách Việt Nam Cộng hòa==
Mãi đến sau cuộc đảo chính 1963 lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cùng một số sĩ quan lưu vong tại Pháp mới trở về nước. Tuy nhiên, không lâu sau đó, tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc chỉnh lý, ông cùng các tướng [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Lê Văn Kim]] & [[Mai Hữu Xuân]] bị giam lỏng tại Đà Lạt một thời gian với lý do có xu hướng trung lập<ref>Hoành Linh Đỗ Mậu, ''Việt Nam máu lửa quê hương tôi''. Chương XVIII: Ba năm xáo trộn.</ref>. Sau khi được trả tự do, ông được tái ngũ và được bổ nhiệm làm Đổng lý Văn phòng Tổng Tư lệnh (tương đương chức vụ Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu cũ) vào tháng 10 năm 1964.
 
Mãi đến sau cuộc đảo chính 1963 lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cùng một số sĩ quan lưu vong tại Pháp mới trở về nước. Tuy nhiên, không lâu sau đó, tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc chỉnh lý, ông cùng các tướng [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Lê Văn Kim]] & [[Mai Hữu Xuân]] bị giam lỏng tại Đà Lạt một thời gian với lý do có xu hướng trung lập<ref>Hoành Linh Đỗ Mậu, ''Việt Nam máu lửa quê hương tôi''. Chương XVIII: Ba năm xáo trộn.</ref>. Sau khi được trả tự do, ông được tái ngũ và được bổ nhiệm làm Đổng lý Văn phòng Tổng Tư lệnh ''(tương đương chức vụ Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu cũ)'' vào tháng 10 năm 1964.
Năm 1965, sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] dưới áp lực của các tướng trẻ buộc phải lưu vong, Bộ Tổng Tư lệnh chuyển lại thành Bộ Tổng tham mưu, ông được bổ nhiệm chức [[Chỉ huy trưởng]] [[Trung tâm huấn luyện Quang Trung]]. Năm 1966, chuyển sang giữ chức [[Tổng cục trưởng]] Tổng cục Quân huấn, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Tháng 10 năm 1967, được thăng [[Trung tướng]].
 
NgàyTrung [[24tuần tháng 11]]2 năm 19671965, ôngsau nhậnkhi chức Tổng trưởng Quốc phòng, lần lượt trong cáctướng [[Nội các ChínhNguyễn phủKhánh]] dưới áp lực của các Thủ tướng [[Nguyễntrẻ Vănbuộc Lộc]]phải (1967)lưu vong, [[TrầnBộ VănTổng Hương]] (1968)lệnh chuyển [[Trầnlại Thiệnthành Khiêm]]Bộ (1969).Tổng Tháng 8 nămtham 1972mưu, ông từđược bổ nhiệm chức vụ[[Chỉ Tổnghuy trưởng]] Quốc[[Trung phòngtâm huấn luyện Quang Trung]].
 
Năm 1966: Tháng 6, ông được chuyển sang giữ chức [[Tổng cục trưởng]] Tổng cục Quân huấn sau khi bàn giao Trung tâm Huấn luyện Quang Trung lại cho Đại tá [[Lê Ngọc Triển]]. Tháng 11 cùng năm, giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu thay thế Thiếu tướng [[Bùi Hữu Nhơn]] ''(đi làm Chỉ huy trưởng Trường bộ binh lần thứ 2)''
Tháng 3 năm 1974, ông giải ngũ cùng đợt với các tướng [[Nguyễn Văn Là]], [[Trần Ngọc Tám]], [[Ngô Dzu]], [[Linh Quang Viên]], [[Hoàng Xuân Lãm]]...
 
Tháng 10 năm 1967, ông được thăng cấp [[Trung tướng]]. Ngày 24/11 cùng năm, bàn giao chức Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tướng [[Trần Thanh Phong]]. Cùng ngày, ông nhận chức Tổng trưởng Quốc phòng, lần lượt trong các [[Nội các Chính phủ]] của các Thủ tướng [[Nguyễn Văn Lộc]] (1967), [[Trần Văn Hương]] (1968) và [[Trần Thiện Khiêm]] (1969).
Sau năm 1975, ông là một trong số hiếm hoi các tướng lĩnh không phải đi cải tạo, dù vẫn ở trong tình trạng bị quản thúc cho đến năm 1979. Sau đó ông được sang Pháp đến điều trị. Ông từ trần tại [[Quân y viện Begin]] đầu năm 1981.
 
Tháng 8 năm 1972, ông từ xin chức Tổng trưởng Quốc phòng.
 
Tháng 3 năm 19741973, ông được giải ngũ cùng đợtlượt với các tướng [[Nguyễn Văn Là]], [[Trần Ngọc Tám]], [[Ngô DzuDu]], [[Linh Quang Viên]], [[Hoàng Xuân Lãm]]...
 
==1975==
 
Sau nămngày 30 tháng 19754, ông là một trong số hiếm hoi các tướng lĩnh không phải đi cải tạo, dù vẫn ở trong tình trạng bị quản thúc cho đến năm 1979. Sau đó ông được sang Pháp đến điều trị bệnh. Ông từ trần tại [[Quân y viện Begin]] đầu năm 1981.
 
Ông từ trần tại [[Quân y viện Begin]] đầu năm 1981. Thọ 65 tuổi.
 
==Chú thích==
Hàng 37 ⟶ 68:
 
==Tham khảo==
 
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, & Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=(2011). |title=''Lược sử quânQuân lực Việt Nam Cộng hòa''. |publisher=HươngTrang Quê |isbn=978242-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}243
 
{{thời gian sống|1916|1981}}
 
[[Thể loại:Người Hà Nội]]
[[Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:ThiếuCựu tướngbinh QuốcQuân giađội ViệtViễn Nam‎chinh Pháp]]
[[Thể loại:ChínhNgười khách Việt Nam Cộng hòaNội]]