Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu kỳ kinh tế”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
'''Chu kỳ kinh tế''', còn gọi là '''chu kỳ kinh doanh''', là sự biến động của [[GDP]]
[[Tập tin:Chukykinhte.gif|lớn|giữa|khung|Chu kỳ kinh tế]]
▲== Các pha củalớn|giữa|khung|Chu kỳ kinh tế]]
*[[Suy thoái kinh tế|Suy thoái]] là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở [[Mỹ]] và [[Nhật Bản]], người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng [[GDP]] thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
*Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
*Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng [[GDP]] thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt [[kinh tế]], [[xã hội]]. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
*[[Tiêu dùng]] giảm mạnh, [[hàng tồn kho]] của các loại [[hàng hóa]] lâu bền trong các [[doanh nghiệp]] tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt
*Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và [[tỷ lệ thất nghiệp]] tăng cao.
*Khi sản lượng giảm thì [[lạm phát]] sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân [[cầu]] sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế [[Suy thoái kinh tế|suy thoái]].
*Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá [[chứng khoán]] thường giảm theo khi các [[nhà đầu tư]] cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về [[vốn]] cũng giảm đi làm cho [[lãi suất]] giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là [[suy thoái kinh tế|suy thoái]], [[khủng hoảng kinh tế|khủng hoảng]], phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, [[thất nghiệp]] tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn [[GDP]] giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở [[Việt Nam]] cho đến đầu [[thập niên 1990]], trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay không còn thấy cách gọi này nữa.
== Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế ==
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính [[quy luật]]. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào [[dự báo]] chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả [[khu vực công cộng]] lẫn [[khu vực tư nhân]] gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, [[sản lượng]] giảm sút, [[tỷ lệ thất nghiệp]] tăng cao, các [[thị trường]] từ [[hàng hóa]] [[dịch vụ]] cho đến [[thị trường vốn]]...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
== Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế ==
[[Tập tin:suythoaidocau.jpg|nhỏ|100px|phải|khung|]]
[[Tập tin:suythoaidocung.jpg|nhỏ|100px|phải|khung|]]
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. [[Việc làm]] và [[lạm phát]] cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái [[kinh tế học vĩ mô]] không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
*[[Chủ nghĩa Keynes]] cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do [[thị trường không hoàn hảo]], khiến cho [[tổng cầu]] biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng [[chính sách quản lý tổng cầu]]. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các [[chính sách tài chính]] và [[chính sách tiền tệ]] nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt chặt. Hình 1 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: [[tổng cầu]] dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho [[sản lượng]] giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (lạm phát giảm).
*Các trường phái theo [[chủ nghĩa kinh tế tự do mới]] thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp của chính phủ hoặc do những [[cú sốc cung]] ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả. Hình 2 minh họa một trường hợp suy thoái do [[tổng cung]] giảm: vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS xuống AS' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' ([[lạm phát]] tăng).
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
*Mô hình gia tốc - số nhân: do [[Paul Samuelson]] đưa ra, mô hình này cho rằng các biến động [[ngoại sinh]] được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự [[gia tốc]] trong [[đầu tư]] tạo ra những dao động có tính chu kỳ của [[GDP]].
*Lý thuyết chính trị: đại diện là các [[nhà kinh tế học]] [[William Nordhaus]], [[Michał Kalecki]],... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng các [[chính sách tài khóa]] và tiền tệ để có thể thắng cử.
*Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như [[Robert Lucas, Jr.]], [[Robert Barro]], [[Thomas Sargent]]...phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của [[giá cả]], tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của [[sản lượng]] và [[việc làm]].
*Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu cực về [[năng suất lao động]] trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là [[nhà kinh tế học]] đoạt [[giải Nobel]] năm [[2004]] [[Edward Prescott]], [[Charles Prosser]],...
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi.
Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các [[nền kinh tế công nghiệp phát triển]],
== Dự báo chu kỳ kinh tế ==
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay
== Các loại chu kỳ kinh tế khác ==
Ngoài chu kỳ kinh tế như vừa trình bày, kinh tế học còn nói đến [[chu kỳ Juglar]], [[chu kỳ Kuznets]], [[chu kỳ Kondratiev]], và [[chu kỳ Kitchen]]. Tuy nhiên, ngày nay người ta hầu như không dùng các chu kỳ này để mô tả xu thế biến động kinh tế nữa do chúng không còn phù hợp với điều kiện hiện đại.
[[Kinh tế chính trị]] Marx-Lenin cho rằng một chu kỳ kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa gồm bốn pha là: [[khủng hoảng kinh tế|khủng hoảng]], tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
== Tham khảo ==
Hàng 85 ⟶ 83:
[[uk:Економічний цикл]]
[[zh:景氣循環]]
|