Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Kim”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Tuhati (thảo luận | đóng góp)
→‎Trung suy và nam thiên: Sửa chính tả
Thẻ: Sửa đổi qua ứng dụng di động
Dòng 53:
=== Trung suy và nam thiên ===
[[Tập tin:Bataille entre mongols & chinois (1211).jpeg|nhỏ|phải|Trong [[chiến dịch Dã Hồ Lĩnh]] năm 1211 ở [[Trương Gia Khẩu]], quân Mông Cổ tiêu diệt 40 vạn quân Kim]]
Hoàn Nhan Vĩnh Tế sau khi kế vị lập tức thanh trừ thế lực ngoại thích, song bản thân ông lại dùng nhầm người, càng khiến cho quốc thế triều Kim suy thoái hỗn loạn, đương thời không đủ sức phản kháng quân Mông Cổ xâm nhập. Nắm [[1206]], [[Thành Cát Tư Hãn]] thống nhất [[sa mạc Gobi|Đại Mạc]], lập nên [[đế quốc Mông Cổ|Đại Mông Cổ Quốc]]. Đương thời, người Mông Cổ giữ thái độ thù địch nghiêm trọng với triều Kim, có ý thoát ly khỏi sự khống chế của triều Kim,{{NoteTag|Khi các bộ tộc Mông Cổ là phiên thuộc của triều Kim, triều Kim vì muốn tránh tình thế xuất hiện một bộ lạc lớn mạnh thống nhất người Mông Cổ nên thường kích động các bộ lạc chống đối lẫn nhau, đồng thời cứ vài năm lại suất quân lên Mạc Bắc để đồ sát, giảm đinh, khiến các bộ lạc Mông Cổ nảy sinh thái độ đối địch với Kim.<ref name="蒙古滅金"/>.}} Thành Cát Tư Hãn cũng biết rằng Hoàn Nhan Vĩnh Tế thuộc hàng bất tài{{NoteTag|Hoàn Nhan Vĩnh Tế trước đó từng hội diện với Thiết Mộc Chân, được đánh giá là hư nhược vô năng<ref name="蒙古滅金"/>.}}, nhận định hiện là thời cơ tốt để đánh diệt triều Kim. Thành Cát Tư Hãn trước tiên công đánh Tây Hạ nhằm phá vỡ đồng minh Kim-Hạ. Đương thời, Tây Hạ cầu viện Kim, Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế ngồi xem không ứng cứu, cuối cùng Tây Hạ thần phục Mông Cổ, chuyển sang phụ Mông phạt Kim. Sau khi loại bỏ được nỗi lo từ Tây Hạ, Thành Cát Tư Hãn vào năm [[1210]] đoạn giao với triều Kim. Năm sau, Thành Cát Tư Hãn phát động chiến tranh Mông-Kim, 40 vạn quân Kim do Thừa tướng [[Hoàn Nhan Thừa Dụ]] và Tướng [[Hoàn Nhan Cửu Cân]] suất lĩnh bị quân Mông Cổ đại phá trong [[chiến dịch Dã Hồ Lĩnh]], Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế đem chức Thừa tướng giao lại cho [[Đồ Đan Dật]] giỏi mưu lược. Quân Mông Cổ sau đó đánh vào Hoa Bắc, cướp đoạt tứ xứ, cuối cùng bao vây Trung Đô của Kim, song do thành trì Trung Đô vững chắc nên quân Mông Cổ triệtrút thoáilui.<ref name="蒙古滅金">《中國通史 宋遼金元史》〈第五章 蒙古興起與大元帝國-草原民族的統一中國: 第81頁-第91頁.</ref> Năm [[1212]], Thành Cát Tư Hãn lại một lần nữa xuống phía nam đánh Kim, từng bao vây Tây Kinh Đại Đồng phủ của Kim. Cùng năm, một người Khiết Đan là [[Da Luật Lưu Ca (nhà Nguyên)|Da Luật Lưu Ca]] ở vùng đông bắc tiến hành phản Kim phụ Mông, quân triều đình Kim bị đánh bại tại Địch Cát Não (nay ở phụ cận [[Xương Đồ]], Liêu Ninh). Năm [[1213]], Tướng [[Hồ Sa Hổ]] sát hại Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế,<ref>《金史·衛绍王本紀》:辛卯, 胡沙虎矯詔以誅反者, 招福海執而殺之, 奪其兵.......黃門出, 胡沙虎卒取「宣命之寶」, 偽除其黨醜奴為德州防禦使、烏古論奪剌順天軍節度使、提控宿直將軍徒單金壽永定軍節度使, 及其餘黨凡數十人, 皆遷宮.遂使宦者李思中害上于邸.</ref> Hồ Sa Hổ lập thứ huynh của Kim Chương Tông là Hoàn Nhan Tuần kế vị, tức [[Kim Tuyên Tông]].<ref name="蒙古滅金"/>
 
Hồ Sa Hổ nắm giữ đại quyền của triều Kim, song do uy hiếp tướng trấn thủ Trung Đô là [[Truật Hổ Cao Kỳ]] nên cuối cùng bị người này sát hại. Mùa thu năm 1213, Thành Cát Tư Hãn phân binh làm 3 lộ đánh Kim, phái Hoàng tử [[Truật Xích]] kinh lược Sơn Tây, Hoàng đệ [[Hợp Tát Nhi]] đến Hà Bắc, bản thân Thành Cát Tư Hãn cùng ấu tử [[Đà Lôi]] đến Sơn Đông, triều đình Kim chỉ còn 11 thành như Trung Đô, Chân Định, Đại Danh là chưa bị mất. Năm sau, Kim Tuyên Tông cầu hòa, dâng vàng và [[Kỳ Quốc công chúa]] cho Thành Cát Tư Hãn, đạt được Mông-Kim hòa nghị. Sau khi quân Mông Cổ triệtrút thoáilui, Kim Tuyên Tống bất chấp sự phản đối của Đồ Đan Dật và những người khác, cùng Truật Hổ Cao Kỳ thiêndời đô tớiđến Biện Kinh, phái Thái tử [[Hoàn Nhan Thủ Trung]] trấn thủ Trung Đô, khiến quân dân Hà Bắc bất an. Năm [[1215]], quân Mông Cổ lấy lý do Kim thiêndời đô vềđến phía nam để suất quân đánh chiếm Trung Đô, đến lúc này Kim để mất khu vực Hà Bắc. Tháng mười cùng năm, tướng Kim phụ trách đánh Da Luật Lưu Ca là [[Bồ Tiên Vạn Nô]] tự lập làm hoàng đế ở [[Liêu Đông]], lậpdựng nên [[Đông Hạ|Đông Chân Quốc]]. Đến lúc này, vùng đất mà người Nữ Chân hưng khởi bị phân chia giữa Bồ Tiên Vạn Nô và Da Luật Lưu Ca, còn Sơn Đông và Hà Bắc đều có [[quân Áo Đỏ]] nổi dậy, triều đình Kim chỉ còn khống chế được Hà Nam, Hoài Bắc và Quan Trung. Hoàng Hà từ khi Kim nam thiên thì đổi dòng sang hướng đông nam, phạm vitầm ngập lụt hết sứcrất rộng.<ref name="蒙古滅金"/><ref name="金朝人口與社會"/>
[[Tập tin:1227 Southern Song.jpg|nhỏ|trái|{{legend|#CC99FE|Lãnh thổ Kim năm 1227}}]]
Sau khi Kim Tuyên Tông nam thiên, quốc thế của Kim càng thêm yếu, Mông Cổ thay thế Kim xưng bá tại Đông Á. Do Thành Cát Tư Hãn đem quân tây chinh [[Nhà Khwarezm-Shah|Đế quốc Khwarezm]] Ba Tư, nên ông ta phong [[Mộc Hoa Lê]] thống lĩnh đất Hán, phong làm "Thái sư quốc vương" thống lĩnh đất Hán.<ref>《元史卷一百一十九‧列傳第六‧木華黎》:「丁丑八月, 詔封太師、國王、都行省承制行事, 賜誓券、黃金印曰:「子孫傳國, 世世不絕.」分弘吉剌、亦乞烈思、兀魯兀、忙兀等十軍, 及吾也而契丹、蕃、漢等軍, 並屬麾下.且諭曰:「太行之北, 朕自經略, 太行以南, 卿其勉之.」賜大駕所建九斿大旗, 仍諭諸將曰:「木華黎建此旗以出號令, 如朕親臨也.」乃建行省于雲、燕, 以圖中原, 遂自燕南攻遂城及蠡州諸城, 拔之.」</ref> tiếp tục uy hiếp triều Kim, Kim ở vào trạng thái hấp hối. Mặc dù Kim Tuyên Tông muốn chấn hưng lại triều Kim, song không có tài năng mưu kế kiệt xuất, lại có thiên tính nghi kỵ, về mặt chính trị không có sự khởi sắc. Năm 1219, Thái Nguyên thất thủ, triều đình Kim lập "Hà Bắc cửu công", phong cho 9 người như Vương Phúc, Di Lạt Chúng Gia Nô, Vũ Tiên tước [[công tước|công]], ban hiệu "Tuyên lực trung thần", mục đích là để khiến họ giữ vững quốc thổ, song không có kết quả. Kim Tuyên Tông nhiệm dụng Truật Hổ Cao Kỳ, người này có bản tính hà khắc, liên tục nam chinh Nam Tống, tây chinh Tây Hạ để khuếch trương lãnh thổ, đồng thời tiếp tục chiến đấu kháng Mông Cổ. Đến lúc này, tình hình của triều Kim là nội chính không tốt, quân lực đã sút kém, trải qua nhiều lần chiến tranh khiến Kim lâm vào khốn cảnh. Năm [[1219]], Truật Hổ Cao Kỳ bị Kim Tuyên Tông giết. Năm [[1224]], Kim Tuyên Tông qua đời, thứ tử Hoàn Nhan Thủ Tự kế vị, tức [[Kim Ai Tông]].<ref name="蒙古滅金"/>
 
=== Vong quốc tại Thái châu ===