Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa xã hội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tuantintuc17 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → (2) using AWB
Dòng 3:
'''Chủ nghĩa xã hội''' bao gồm các tư tưởng [[chính trị]] ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong đó các sở hữu về tư liệu sản xuất là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn<ref>[http://www.britannica.com/eb/article-9109587 "Socialism"] ''[[Encyclopædia Britannica]]''. 2006. Encyclopædia Britannica Online.</ref>. Quyền điều khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức [[công đoàn]] hay gián tiếp qua hình thức [[nhà nước]]. Nhìn theo khía cạnh [[kinh tế]] thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa".
 
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động trong cuối [[thế kỷ 19]]. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về những phê phán của các nhà phê bình xã hội [[châu Âu]] khi họ phê bình về [[chủ nghĩa tư bản]] và về khái niệm sở hữu riêng. Đối với [[Karl Marx]], người đã đóng góp một phần lớn trong việc xây dựng phong trào xã hội hiện đại, thì chủ nghĩa xã hội sẽ là một hệ thống kinh tế-xã hội sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của một số ít sang tay của một tập thể. Theo [[Friedrich Engels]] thì Xã hội chủ nghĩa 1847 là một phong trào tư sản, chủ nghĩa Cộng sản là một phong trào của công nhân ([[Cabet]], [[Wilhelm Weitling|Weitling]]), vì vậy [[Karl Marx]] và Engels hồi đó ưa chuộng từ Cộng sản hơn. Mãi cho tới 1887 cả các công đoàn Anh mới tự nhận là theo Xã hội chủ nghĩa.<ref>Friedrich Engels: Vorwort zur deutschen Ausgabe von 1890 (Auszug) zum „Kommunistischen Manifest“, Marx/Engels, Ausgewählte Schriften, Bd. I, Berlin 1968, S. 21ff.</ref>
 
Theo nhà báo [[Hoàng Đạo (nhà văn)|Hoàng Đạo]] (tức Nguyễn Tường Long) trên báo Ngày nay ngày 3 tháng 4 năm 1937, thì "Năm ấy, Marx và Engels, đồng chí của ông ta, xuất bản "lời tuyên ngôn của đảng cộng sản" nói về nguyên tố của chủ nghĩa xã hội. Hai ông dùng chữ "cộng sản" là vì muốn phân biệt cho rõ ràng chủ nghĩa xã hội khoa học với những chủ nghĩa xã hội duy tâm mà thời ấy người ta thường gọi chung là "xã hội". Dần dà, những chủ nghĩa duy tâm bị lu mờ, và đến năm 1867, lúc ông Karl Marx cho xuất bản tập thứ nhất quyển "Tư bản" (Le Capital), thì những người theo chủ nghĩa duy tâm không còn mấy nữa".
Dòng 33:
 
== Các trường phái chủ nghĩa xã hội ==
Mục tiêu của tất cả các phong trào theo chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội công bằng hơn [[chủ nghĩa tư bản]], nhưng họ thường bất đồng trong các quan điểm về chủ nghĩa xã hội, cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, mô hình [[nhà nước]], vai trò nhà nước trong nền kinh tế, mô hình quản lý sản xuất. Khác với những người theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ hay vô chính phủ, [[chủ nghĩa xã hội tự do cá nhân]], hầu hết các trường phái chủ nghĩa xã hội đều đề cao vai trò của Nhà nước. Hai trường phái chủ nghĩa xã hội cơ bản là trường phái [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của những người cộng sản không chỉ đề cao vai trò của Nhà nước, sở hữu Nhà nước mà tiến tới một xã hội cộng sản. Theo lý luận của những người cộng sản, nhất thiết cần tiến hành [[cách mạng vô sản]] để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên không phải là nhất thiết trong mọi hoàn cảnh. Thực tế là những người cộng sản cũng tham gia đấu tranh nghị trường nếu tự do tư tưởng trong xã hội tư bản được chấp thuận (ví dụ ở một số nước châu Âu sau 1918, ở Trung Quốc, Việt Nam một dạo, hay nhiều nước khác hiện nay)
 
Chấp thuận kinh tế thị trường hoặc kinh tế phi thị trường cũng là một tranh cãi trong nội bộ những người xã hội chủ nghĩa. Đa số các trường phái cho cần xóa bỏ kinh tế thị trường, vì nó nhân tâm lý tư bản và dẫn đến bất bình đẳng xã hội. Các trường phái ủng hộ kinh tế thị trường cho chỉ cần có bàn tay nhà nước hoặc thể chể khác để điều chỉnh lại theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Dòng 61:
Ngược các lực lượng cánh hữu thường tập trung vào các vấn đề [[quyền tự do|tự do]], dân chủ, nhân quyền, hay quyền lợi dân tộc, mà ít coi trọng đến giải quyết các vấn đề về xã hội như phân hóa giàu - nghèo, tình trạng thất nghiệp, hay các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, các lực lượng cánh tả các nước tư bản chú ý nhiều hơn đến các khía cạnh này, đấu tranh nhiều hơn cho các lĩnh vực bình đẳng giới hay bảo vệ môi trường,... và thường ít chú ý hơn đến các vấn đề về chống [[độc tài]] và vi phạm quyền cá nhân, mặc dù tôn trọng dân chủ đại nghị. Tuy nhiên sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, xuất hiện các tư tưởng thiên hữu nhiều hơn trong các lực lượng cánh tả, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về [[dân chủ]] và [[nhân quyền]], và chú trọng nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế hơn là bình đẳng.
 
Nhìn chung sự xích lại gần nhau của các lực lượng cánh hữu và cánh tả như sự chấp nhận nhiều hơn của [[cánh hữu]] trong vấn đề [[an sinh xã hội]] hay tạo việc làm, tạo điều kiện cho các tổ chức [[công đoàn]] hoạt động, mở rộng phổ thông đầu phiếu, hay cánh tả trong bảo vệ các quyền cá nhân, kể cả quyền tư hữu và kinh doanh đã làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xích lại gần nhau hơn. Chia sẻ quan điểm về dân chủ nhưng bất đồng vai trò nhà nước là đặc điểm thường thấy ở các nước phát triển của cánh tả và hữu, cánh hữu không mấy tin tưởng ở nhà nước, tạo không gian lớn hơn cho thị trường tự điều tiết, còn cánh tả muốn nhà nước có vai trò lớn hơn trong điều tiết kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên các mô hình kinh tế của [[cánh tả]] thường chỉ thích nghi trong một số hoàn cảnh nhất định, và hay được xem cho năng suất lao động yếu, sự đặc quyền đặc lợi và tham nhũng do hệ thống quản lý yếu kém ở một số nước, cũng như can thiệp nhà nước thái quá gây bất bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường, xã hội hóa không thực hiện được và hay biến tướng thành nhà nước hóa [[tư liệu sản xuất]], nên ảnh hưởng cánh tả nhiều nơi suy yếu. Song sự trỗi dậy của cánh hữu nhiều nơi đi kèm với [[toàn cầu hóa]] của chủ nghĩa tư bản đã gây ra nhiều hệ quả mới ở các nước như sự phân hóa xã hội ngày càng lớn, quan hệ "chủ - tớ" trong quan hệ sản xuất tư bản vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố bất bình đẳng chủ yếu do luật pháp yếu kém, các chính sách đầu tư nước ngoài ở các nước kém phát triển thường đem lại lợi ích trước mắt nhưng có thể gây tổn hại cho các lợi ích lâu dài (mà hay được xem là [[chủ nghĩa thực dân mới]]), tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, sự suy đồi đạo đức..., các nền dân chủ đại nghị có nhiều ưu điểm nhưng vẫn không thể che hết những khuyết điểm, và tạo điều kiện cho tư tưởng cực đoan phát triển như tư tưởng vô chính phủ (chán ghét nhà nước bất kỳ, không tin tưởng các đảng phái)... hay là các phong trào chính trị tôn giáo cực đoan (cực hữu) chống lại chủ nghĩa tư bản hay văn hóa, tôn giáo du nhập từ phương Tây và vô thần (như phong trào [[Hồi giáo cực đoan]]).
 
== Các nước xã hội chủ nghĩa ==
Dòng 80:
Ngược lại, các thành phần [[kinh tế tư nhân]] do luật pháp lỏng lẻo, các hiện tượng làm giàu bất chính hay lạm dụng sức lao động, vi phạm luật pháp hay các nguyên tắc đạo lý cộng đồng cũng hay xảy ra. Nhiều công chức đảng viên tham gia vào kinh tế tư nhân, đầu tư vốn như là các nhà [[tư bản tài chính]] để thu lời, và do đó một số doanh nghiệp tư nhân được ưu ái. Các nguyên tắc nền kinh tế thị trường chỉ được áp dụng một cách "méo mó". Đứng trước một số vấn đề nhất là phân hóa xã hội (Trung quốc là một trong số những nước nhiều tỷ phú nhất), các chính kinh tế hướng giải quyết các vấn đề xã hội được khuyến khích, chính sách đánh thuế cá nhân (mà những người [[chủ nghĩa xã hội-dân chủ|dân chủ xã hội]] hay khuyến khích) để điều chỉnh thu nhập cũng được áp dụng nhưng hiệu quả còn thấp do chống đối của một số người cho sự đánh thuế không công bằng, hay liên quan sự minh bạch của nhà nước. Tuy nhiên Trung Quốc vẫn được xem là có một sự chuyển đổi kinh tế thành công dựa trên kinh nghiệm của các sự chuyển đổi trước đó, tận dụng những lợi thế rất nhiều sẵn có của đất nước.
 
Một mô hình khác phát triển tại Mỹ Latinh. Các lãnh đạo XHCN tuyên bố chống "chủ nghĩa đế quốc kinh tế", toàn cầu hóa quyết liệt. Đây là một xu hướng ngược với Trung quốc, nơi khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, và tham gia toàn cầu hóa cạnh tranh kinh tế. Quá trình quốc hữu hóa ở các nước Mỹ latinh tuyên bố XHCN (không chịu ảnh hưởng [[chủ nghĩa Marx]]) theo các phương thức gây tranh cãi, nhất là liên hệ với [[chủ nghĩa xã hội dân chủ]] và được sự ủng hộ khá lớn dân chúng. Các nước này chưa phải là các nước XHCN, do kinh tế thành phần tư nhân vẫn chiếm một vai trò đáng kể, và tương lai các nước này không thật sự rõ ràng, do duy trì dân chủ đại nghị, [[bầu cử tự do]] theo nhiệm kỳ, sức ép đối lập, và sự thất thường tăng trưởng kinh tế. Theo một số nhà lý luận thì phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh mang màu sắc [[chủ nghĩa dân tộc]] nhiều hơn. Ở một số nước, tỷ lệ nghèo và bất bình đẳng xã hội giảm đáng kể nhưng hiệu quả kinh tế thì không rõ ràng.
 
== Xem thêm ==