Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Vịt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: AlphamaEditor, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:15.8275826
dùng sai từ r các bn ơi
Dòng 33:
'''Họ Vịt''' ([[danh pháp|danh pháp khoa học]]: '''''Anatidae''''') là một [[họ (sinh học)|họ]] bao gồm các loài [[vịt]] và các loài thủy điểu trông giống vịt nhất, chẳng hạn như [[ngỗng]] và [[thiên nga]]. Chúng là các loài [[chim]] đã tiến hóa để thích nghi với việc bơi lội, trôi nổi trên mặt nước và đôi khi lặn xuống ít nhất là trong các vùng nước nông. Loài [[ngỗng bồ các]] hiện nay không còn được coi là một phần của họ Anatidae mà đã được tách ra thành họ khác biệt chứa chính nó, gọi là [[Ngỗng bồ các|Anseranatidae]].
 
Các loài trong họ này dao động về kích thước từ nhỏ như [[le khoang cổ]] chỉ dài 26,5 cm (10,5 inch) và cân nặng 164 gam (5,8 oz) tới lớn như [[thiên nga kèn]] dài tới 183 cm (6 ft) và cân nặng 17,2 kg (38 pao). Chúng có các [[Màng chân|chân màng]] và mỏ dẹp nhiều hay ít. Bộ lông vũ của chúng chống thấm nước rất tốt nhờ một loại mỡ đặc biệt. Họ Anatidae đáng chú ý ở chỗ đây là một trong số ít các họ chim có [[dương vật]]; đây là cơ chế thích nghi cho việc [[quan hệ tình dục|giao phối]] trong nước. Các loại lông tơ, lông vũ mềm của vịt, vịt biển, ngỗng khá phổ biến để làm đệm trải giường, gối, túi ngủ và áo khoác. Nhiều thành viên trong họ này được sử dụng làm nguồn cung cấp thực phẩm cho con người.
 
Loài người có các mối quan hệ lịch sử lâu dài với vịt, ngỗng, ngan, thiên nga. Chúng là quan trọng về mặt kinh tế-thương mại và văn hóa đối với con người và một vài loài thủy điểu dạng vịt cũng nhạn được lợi ích từ sự gắn bó với con người. Mặt trái của mối quan hệ này là một vài loài thủy điểu dạng vịt cũng là những loài sinh vật gây hại trong nông nghiệp, hay có vai trò như là các sinh vật mang mầm bệnh để lây truyền sang con người, chẳng hạn bệnh [[cúm gia cầm]]. Nhiều loài vịt và ngỗng đã [[tuyệt chủng]] và nhiều loài hiện nay được coi là đang nguy cấp do các hoạt động của con người.
Dòng 39:
 
==Hệ thống học==
Hiện tại, hệ thống học của họ Anatinae ở tình trạng thay đổi liên tục. Trước đây nó được phân chia thành 6 phân họ, nhưng nghiên cứu các đặc trưng giải phẫu do Livezey<ref name = livezey1986>Livezey Bradley C. (1986): A phylogenetic analysis of recent anseriform genera using morphological characters. ''[[Auk (tạp chí)|Auk]]'' '''103'''(4): 737-754. [http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v103n04/p0737-p0754.pdf Toàn văn PDF] [http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v103n04/DJVU/P0737-P0754.djvu Toàn văn DjVu]</ref> tiến hành gợi ý rằng họ Anatidae tốt hơn nên chia thành 9 phân họ. Phân loại này phổ biến vào cuối thập niên 1980 tới thập niên 1990<ref name = "MadgeBurn1987">Madge Steve & Burn Hilary (1987): ''Wildfowl: an identification guide to the ducks, geese and swans of the world''. Christopher Helm, London. ISBN 0-7470-2201-1</ref>. Nhưng các phân tích [[trình tự ADN|chuỗi]] [[mtDNA]]<ref name = Sraml1996>Sraml M.; Christidis L.; Easteal S.; Horn P. & Collet C. (1996): Molecular Relationships Within Australasian Waterfowl (Anseriformes). ''Australian Journal of Zoology'' '''44'''(1): 47-58. {{DOI|10.1071/ZO9960047}} (Tóm tắt HTML)</ref><ref name =JS1999>Johnson Kevin P. & Sorenson Michael D. (1999): Phylogeny and biogeography of dabbling ducks (genus Anas): a comparison of molecular and morphological evidence. ''[[Auk (tạp chí)|Auk]]'' '''116'''(3): 792–805. [http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v116n03/p0792-p0805.pdf Toàn văn PDF]</ref> lại chỉ ra một số điều, chẳng hạn như vịt mò và vịt lặn không thuộc về cùng một phân họ. Trong khi đây có thể là một trong những thiếu sót trong phân tích của Livezey, nhưng mtDNA là nguồn không đủ tin cậy để cung cấp thông tin phát sinh loài ở nhiều loài thủy điểu (đặc biệt là ở nhóm vịt mò) do khả năng của chúng trong việc sinh ra các con lai có khả năng sinh sản<ref name = "Carboneras1992">Carboneras Carles (1992): Family Anatidae (Ducks, Geese and Swans). ''Trong:'' del Hoyo Josep; Elliott Andrew & Sargatal Jordi (chủ biên): ''Handbook of Birds of the World'' (Quyển 1: Ostrich to Ducks): 536-629. Lynx Edicions, Barcelona. ISBN 84-87334-10-5</ref>, trong những trường hợp hiếm xảy ra hơn thậm chí khả năng này có thể còn vượt qua cả cấp độ [[chi (sinh học)|chi]] (ví dụ như ở "[[ngan bướu mũi|ngan]]"). Do kích thước lấy mẫu nhỏ trong nhiều nghiên cứu ở cấp độ phân tử có khả năng thực hiện được cho tới nay, nên các kết quả mtDNA cần được xem xét một cách thận trọng.
 
Nhưng trong khi sự xem xét bao hàm toàn diện về họ Anatidae để hợp nhất mọi chứng cứ thành cây phát sinh loài đáng tin cậy vẫn còn chưa có thì các lý do cho các dữ liệu gây bối rối lại tương đối rõ ràng: Như được chứng minh từ [[hóa thạch]] Hậu [[Kỷ Creta|Phấn trắng]] của ''[[Vegavis iaai]]'' — loài thủy điểu hiện đại thời kỳ đầu thuộc về dòng dõi đã tuyệt chủng — thì họ Anatidae là nhóm cổ đại trong số các nhóm chim hiện đại. Các tổ tiên trực tiếp sớm nhất của chúng, mặc dù chưa được ghi nhận bằng hóa thạch, cũng có thể được giả định cho là đương thời với các loài [[khủng long]]. Một khoảng thời gian dài để [[tiến hóa]] và các chuyển dịch từ kiểu sống này sang kiểu sống khác của thủy điểu đã làm mờ đi nhiều đặc trưng tồn tại trước khi có tổ tiên chung gần nhất của nhóm, trong khi các đặc trưng phát sinh sau khi chúng đã tách ra khỏi tổ tiên chung gần nhất lại dường như thường là kết quả của [[tiến hóa song song]], chẳng hạn kiểu "vịt không lặn" được thể hiện ở những chi không có quan hệ họ hàng gần như ''[[Phân họ Le nâu|Dendrocygna]]'', ''[[Amazonetta brasiliensis|Amazonetta]]'' và ''[[Chi Ngan|Cairina]]''. Đối với các mẫu hóa thạch, xem dưới đây.
 
Theo kiểu khác<ref name = "TerresNAS1991">Terres John K. & National Audubon Society (NAS) (1991): ''The Audubon Society Encyclopedia of North American Birds''. Wings Books, New York. Tái bản của ấn bản năm 1980. ISBN 0517032880</ref>, họ Anatidae có thể được coi là bao gồm 3 phân họ (về cơ bản là vịt, ngỗng, thiên nga) trong đó chứa các nhóm được thể hiện tại đây như là các [[tông (sinh học)|tông]], trong đó thiên nga tách ra thành phân họ [[Cygninae]], phân họ ngỗng (Anserinae) cũng chứa các loài le nâu còn phân họ [[Phân họ Vịt|Anatinae]] chứa toàn bộ các nhánh khác còn lại.
 
===Dendrocygninae: Le nâu===
Dòng 96:
 
===Aythyinae: Vịt lặn===
Khoảng 15 loài [[phân họ Vịt lặn|vịt lặn]], với sự phân bố khắp thế giới, trong 2-4 chi. Phân tích hình thái năm 1986<ref name = livezey1986 /> gợi ý rằng loài [[vịt tai hồng]] ở [[Ấn Độ]], có lẽ đã tuyệt chủng, trước đây liệt kê trong chi ''Rhodonessa'', nên được đặt trong chi ''Netta'', nhưng điều này bị nghi vấn<ref name = "Collar2001">Collar N. J.; Andreev A. V.; Chan S.; Crosby M. J.; Subramanya S. & Tobias, J. A. (chủ biên) (2001): Pink-headed Duck. ''Trong'':''Threatened Birds of Asia: The BirdLife International Red Data Book'': 489-501. BirdLife International. ISBN 0-946888-44-2 [http://www.rdb.or.id/view_html.php?id=73&op=rhodcary Toàn văn HTML]</ref>. Ngoài ra, trong khi về mặt hình thái chúng gần với nhóm vịt mò, nhưng các dữ liệu mtDNA lại chỉ ra rằng việc coi chúng là một phân họ khác biệt là chính xác hơn, với [[Phân họ Vịt khoang|Tadorninae]] là gần gũi với vịt mò hơn là gần với vịt lặn<ref name = JS1999 />:
*''[[Netta]]'': Vịt lặn mào đỏ và đồng minh (4 loài, 1 có lẽ tuyệt chủng)
*''[[Aythya]]'': Vịt lặn, vịt bãi v.v (12 loài)