Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Việt Nam (miền Nam, 1954–1959)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:17.2157214
n sửa chính tả 3, replaced: Nxb → Nhà xuất bản (3), Phật Giáo → Phật giáo (4) using AWB
Dòng 10:
|combatant2=[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Xứ ủy Nam Kỳ]]<br>
[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Cao Đài]]
[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Phật Giáogiáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]]
|commander1=[[Ngô Đình Diệm]]<br>[[Ngô Đình Nhu]]<br>[[Edward Landsdale]]
|commander2=
Dòng 26:
Tuy nhiên, báo cáo của [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] cho Tổng thống Mỹ [[Dwight D. Eisenhower|Eisenhower]] thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành, nên Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra.<ref>Dwight D. Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday & Compnay, Inc., 1963), tr. 372</ref> Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do [[Edward Lansdale]], người của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, giúp huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippin; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối"<ref>Trích tại The CIA: A Forgotten History; All other actions: The Pentagon Papers, Document No. 15: 'Lansdale Team's Report on Covert Saigon Mission in '54 and '55,' pp. 53-66.</ref> Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam. Tháng 1-1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Quốc gia Việt Nam.
{{Chiến tranh Việt Nam}}
Tính ra, từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 7 tỷ đôla, trong đó viện trợ quân sự là 1,5 tỷ đôla.<ref>Robert S.Mc.Namara: Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học Việt Nam, NxbNhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43</ref> Trong những năm 1954-1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Việt Nam Cộng Hòa, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.
 
Với sự trợ giúp tích cực của [[Hoa Kỳ]], [[Thủ tướng Việt Nam|thủ tướng]] vừa được bổ nhiệm [[Ngô Đình Diệm]] đã nhanh chóng ổn định được tình hình. Sau cuộc trưng cầu ý dân ngày [[23 tháng 10]] năm [[1955]] Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống và miền Nam (lúc đó có tên là Quốc gia Việt Nam) trở thành [[Việt Nam Cộng hòa]] với nền [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam]]. Quốc trưởng [[Bảo Đại]], vì không phải là đối thủ của Ngô Đình Diệm, đã bị phế truất và phải đi lưu vong.
Dòng 46:
Tất cả các nhà lãnh đạo của Việt Nam Cộng hoà, từ Ngô Đình Diệm cho đến [[Nguyễn Văn Thiệu]] và [[Dương Văn Minh]] sau này, không ai có được uy tín cao trong dân chúng như là những người hy sinh đấu tranh cho độc lập cho dân tộc như [[Hồ Chí Minh]].{{fact|date = ngày 17 tháng 7 năm 2014}} Trước năm 1945, họ là quan chức của Triều đình Huế hoặc chính quyền bảo hộ Pháp, sau này trở thành quan chức của [[Quốc gia Việt Nam]]. Họ xuất thân là các công chức, trí thức chịu nhiều ảnh hưởng Tây phương, xa rời với tâm lý của nông dân. Họ rất yếu trong công tác dân vận, thậm chí khi xuống địa phương gặp quần chúng họ lại nói [[tiếng Pháp]].{{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}} Ngô Đình Diệm còn thụ hưởng nghi lễ rửa chân làm Hoàng đế của [[người Thượng]]. Trong khi đó cách dân vận của những người Cộng sản thì lại hợp lý hơn: cán bộ của họ "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nông dân, cán bộ người Kinh của họ "[[cà răng căng tai]]" cùng người Thượng.
 
Lực lượng chính trị của Việt Nam Cộng hoà mạnh ở các thành phố lớn và tại các vùng nông thôn mà người cộng sản không có nhiều ảnh hưởng như các vùng có đông tín đồ [[Cao Đài]], [[Phật Giáogiáo Hòa Hảo|Hoà Hảo]], Thiên chúa giáo...
 
Chính phủ Việt Nam Cộng hoà vướng vào một nghịch lý. Muốn xây dựng miền Nam thành một nền dân chủ<ref>The Reunification of Vietnam, SURVEY ON THE GENEVA AGREEMENTS of July 1954, page 11, Vietnam bulletin - a weekly publication of the Embassy of Vietnam in United States, Special issue No.16, Available [http://www.vietnam.ttu.edu/star/images/1653/16530101012.pdf online]</ref><ref>Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956, Điều 4: '''''Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ''', chính thể cộng hòa, và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.''</ref> theo mô hình phương Tây trước hết phải ổn định chính trị, thiết lập lại trật tự xã hội, phát triển kinh tế với sự hỗ trợ của Mỹ. Nhưng càng cố gắng thiết lập trật tự, dẹp bỏ các lực lượng chống đối thì họ càng bị coi là tay sai, độc tài, gia đình trị. Những người cộng sản và những thành phần chính trị hợp pháp đối lập với chính phủ Việt Nam Cộng hoà lúc đó càng có lý do để chỉ trích chính phủ và gia tăng các hoạt động chống đối của họ. Để đối phó, chính phủ Việt Nam Cộng hoà càng cứng rắn hơn nữa. Cứ như thế tình hình chính trị miền Nam ngày càng bất ổn, chính phủ Ngô Đình Diệm càng bị lên án độc tài, gia đình trị.
 
=== Quân đội ===
Việt Nam Cộng hoà cũng thành công trong việc thống nhất lại các lực lượng Quân đội Quốc gia vốn là nhiều mảnh vụn, nhiều phe cánh khác nhau khi còn là quân đội của Quốc gia Việt Nam trong thành phần quân đội Liên hiệp Pháp. Nổi bật nhất là việc Chính phủ Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng bình định các lực lượng vũ trang cát cứ của [[Bình Xuyên|nhóm Bình Xuyên]], của các giáo phái như [[Phật Giáogiáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]], [[Cao Đài]]... và những người cộng sản còn lại đang ẩn mình trong các giáo phái. Phần lớn các lực lượng quân sự giáo phái, hoặc phải giải tán, hoặc chấp nhận hợp nhất với lực lượng quân đội chính phủ<ref>[http://www.hoahao.org/D_1-2_2-188_4-63_5-3_6-1_17-9_14-2_15-2/ Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, CHƯƠNG 13: VẤN ĐỀ SÁT NHẬP QUÂN LỰC PGHH VÀO QUÂN ĐỘI QUỐC GIA Việt Nam, Tập san Đuốc Từ Bi, 1991]</ref>.
 
[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] được cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân đội này, vào thời điểm đó có trang bị vũ khí được xem là đứng đầu khu vực [[Đông Nam Á]] và vượt trội hơn [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] - đối thủ đang tiềm tàng ở miền Bắc của họ.{{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}}
Dòng 70:
 
=== Vấn đề tôn giáo===
Các tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài không phải chỗ dựa chính chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khá đông lựa chọn thái độ trung lập. Theo nhận định của Đảng cộng sản về Công giáo: ''Trước hoà bình tổng số đồng bào Công giáo chỉ khoảng 324.630, nay cộng thêm vào số đồng bào miền Bắc di cư vào có khoảng 711.714 (theo tài liệu của báo chí miền Nam). Mấy năm qua Mỹ - Diệm cố gắng phát triển Công giáo để làm hậu thuẫn cho chúng. Chúng đạt được một số kết quả ở vài nơi ở Liên khu V; trong những vùng bị khủng bố nặng nề, có nhiều người vào Công giáo để tránh khủng bố; ở Nam Bộ cũng làm như thế, nhưng Công giáo không phát triển nổi. Số Công giáo người miền Nam, nhất là ở Nam Bộ, trước đây đoàn kết tốt với đồng bào lương và tham gia kháng chiến, đến nay nói chung quan hệ tốt đó vẫn được duy trì. Những cha cố Công giáo di cư vào không lôi kéo được họ. Công giáo di cư khi mới vào nói chung đều ủng hộ Diệm, tích cực chống ta''.<ref>Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) Họp từ ngày 12 đến 22-1-1959</ref>. ''Các tín đồ tôn giáo (Cao Đài, Hoà Hảo, Phật Giáogiáo, v.v.), đại đa số là nông dân, đều có mâu thuẫn với chính quyền Mỹ - Diệm về quyền lợi dân tộc, quyền lợi tôn giáo và quyền lợi giai cấp. Ngay cả trong Công giáo, cũng có bộ phận theo Diệm và có bộ phận chống Diệm.''<ref>Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà</ref>
 
Tổng thống Ngô Đình Diệm có lực lượng chính trị hậu thuẫn mạnh ở thành thị là lực lượng [[Công giáo]],chủ yếu là các giáo dân [[Cuộc di cư Việt Nam, 1954|di cư từ miền Bắc]]. Tuy nhiên Công giáo là tôn giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, số tín đồ Công giáo ít hơn các tôn giáo khác tồn tại ở Việt Nam lâu đời hơn. Tổng thống Ngô Đình Diệm là người Công giáo, lại bố trí nhiều nhân vật Công giáo vào chính phủ{{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}} nên ông bị kết tội thiên vị tôn giáo của mình. Khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, sau khi mọi nhượng bộ của chính quyền đều không mang lại hiệu quả {{fact|date = ngày 6 tháng 1 năm 2013}}, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chọn giải pháp vũ lực để giải quyết khủng hoảng nên tự làm mất sự ủng hộ cả trong và ngoài nước, và gây ra những xáo trộn rất lớn cho chính trường và xã hội. Cũng chính điều này làm khởi phát cuộc đảo chính của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực Việt Nam Cộng hoà]] chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm [[1963]].
Dòng 84:
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1954) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng một số cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại.<ref name="quankhu8"/> Theo ước tính của Mỹ, lực lượng này còn đến 100.000 người.<ref name="insurgency"/> Một số cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự phòng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại<ref name="quankhu8"/>. Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần. Chỉ riêng Quân khu 8 đã để lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 [[tiểu đoàn]] (1.500 người).<ref name="quankhu8"/> Trong chiến dịch Tố cộng, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ khí các loại và 75 tấn tài liệu.<ref name="insurgency"/>
 
Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử những cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo. Một số trí thức là đảng viên vào miền Nam hoạt động công khai và hợp pháp. Đồng thời miền Bắc còn tuyển chọn và huấn luyện nhiều nhân viên tình báo đưa vào miền Nam hoạt động trong hàng ngũ đối phương. Những cán bộ được cử vào Nam xâm nhập miền Nam bằng con đường hợp pháp dưới danh nghĩa dân thường [[Cuộc di cư Việt Nam,1955|di cư vào Nam]].<ref name="quankhu8">Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1954 đến cuối năm 1959), Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, NxbNhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998</ref>
 
=== Đấu tranh chính trị (1954-1956) ===
Dòng 93:
 
==== Tổ chức biểu tình ====
Ban đầu Việt Minh tổ chức những cuộc biểu tình tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], đòi thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống lại việc thi hành chính sách "[[Cải cách ruộng đất|Cải cách điền địa]]" và tuyên truyền trong dân chúng rằng: chính phủ Ngô Đình Diệm là chế độ phát xít, phản động, gia đình trị và tham nhũng, là tay sai của Mỹ, được Mỹ dựng lên để chia cắt Việt Nam, áp đặt [[Chủ nghĩa thực dân mới]] của Mỹ. Việt Minh kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền như truyền miệng, phát truyền đơn, sử dụng báo chí tự do để chỉ trích chính quyền.<ref>Chém vè giữa làng báo Sài Gòn - Tuyển tập Nguyên Hùng, Nguyên Hùng, NxbNhà xuất bản Công an nhân dân, 2005</ref> Họ còn phát động quần chúng đấu tranh với những khẩu hiệu như: đòi cải thiện dân sinh, chống nộp tô cho chủ đất, đòi lại các quyền tự do dân chủ, bảo vệ hoà bình.
 
Trong giai đoạn này Việt Minh kết hợp cả hai hình thức đấu tranh bí mật và đấu tranh công khai vô cùng sáng tạo và nhuần nhuyễn. Họ xây dựng nhiều tổ chức công khai như vạn phát, vạn cấy, hội chống trộm cướp... để có danh nghĩa hoạt động công khai. Tiếp đó cài người vào nắm các Hội đồng hương chính, công đoàn, nghiệp đoàn, hội ái hữu, hội tương tế để sử dụng các tổ chức này tập hợp quần chúng, tổ chức biểu tình, đưa các yêu sách đấu tranh.