Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Đôn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Chính khách Đệ nhị Cộng hòa: sửa chính tả 3, replaced: Quốc Phòng → Quốc phòng using AWB
n sửa chính tả 3, replaced: NXB → Nhà xuất bản (7) using AWB
Dòng 27:
Tháng 9 năm 1939, [[Thế chiến thứ hai]] bùng nổ. Ông nhập ngũ vào [[Quân đội Pháp]]. Tháng 5 năm 1940, ông được cử theo học tại Trường Sĩ quan Trừ bị Saint Maixent. Tuy nhiên, trong thời gian ông thụ huấn, nước Pháp thất thủ trước [[Đức Quốc xã]]. Ông bị bắt làm tù binh tại chiến trường La Loire và giam giữ 2 tháng tại Trường Thiết giáp Kỵ binh Saumur. Tháng 12 năm đó, ông hồi hương bằng đường biển trên tàu thuỷ Ville de Strasbourg.
 
Sau khi về nước, ông tiếp tục phục vụ cho Quân đội Pháp tại Đông Dương, trở thành Huấn luyện viên tân binh cho các binh sĩ người Việt trong quân đội thuộc địa. Năm 1944, ông là một trong 2 hạ sĩ quan trẻ người Việt (trong số 10 khóa sinh) được cử theo học Trường Võ bị Tông, [[Sơn Tây]] theo chương trình nhằm đào tạo sĩ quan người Việt của chính quyền thuộc địa Pháp<ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'', NXBNhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989. tr. 27.</ref>. Ông tốt nghiêp với cấp bậc [[Chuẩn úy]] và được giữ lại trường làm huấn luyện viên.
 
Khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, ông theo đoàn quân của tướng [[Marcel Alessandri]] vượt biên đào thoát sang [[Trung Quốc]]. Vì vậy, khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]], được phân công phục vụ tại văn phòng của tướng [[Jacques-Philippe Leclerc]], Tổng tư lệnh Quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Giữa tháng 12, ông từng được chọn vào Biệt đội hỗ trợ cho cựu hoàng [[Duy Tân]], nguyên Thiếu tá Quân đội Pháp. Tuy nhiên do cựu hoàng bị tử nạn máy bay vào ngày [[26 tháng 12]] năm 1945 khi trên đường trở về nước, do đó ông được chuyển sang Sở Nghiên cứu Lịch sử Pháp.{{cần chú thích|date = ngày 4 tháng 8 năm 2015}} Đầu tháng 10 năm 1946, ông được thăng [[Trung úy]].
Dòng 45:
Tháng 5 năm 1957, ông tháp tùng Tổng thống Diệm công du Hoa Kỳ 10 ngày. Đến tháng 10, được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh [[Quân đoàn I (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật]]. Năm 1959, ông được cử đi du học khóa vũ khí cận đại tại Fort Bliss, Texas, Hoa Kỳ.
 
Tuy nhiên, từ năm 1960 trở đi, mối quan hệ giữa ông và Tổng thống Diệm bắt đầu có những rạn nứt. Năm 1962, ông được điều về lại Bộ Tổng tham mưu nhận chức Tư lệnh Lục quân, trên thực tế là một chức vụ không nắm thực quyền. Những người cũ của ông ngày nào từng ủng hộ Tổng thống Diệm cũng giữ một chức vụ "quyền lực" không kém: tướng [[Dương Văn Minh]], Tư lệnh Hành quân Bộ Tổng tham mưu; tướng [[Lê Văn Kim]], Phụ tá Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân; tướng [[Trần Văn Minh (lục quân)|Trần Văn Minh]], Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự... Cộng thêm tình thế chính trị và xã hội phức tạp của [[Việt Nam Cộng hòa]] trong [[Biến cố Phật giáo, 1963|Biến cố Phật giáo 1963]], ông dần trở thành một nhân vật quan trọng trong các báo cáo về những ý đồ đảo chính của phân bộ [[CIA]] tại Sài Gòn.<ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'' NXBNhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, tr. 173</ref>
 
==Đảo chính và bị đảo chính==
Mặc dù vậy, với bản tính thận trọng, ông vẫn giữ được phần nào sự tin cậy của Tổng thống Diệm trong khi vẫn là nhân vật liên lạc của nhóm đảo chính, thậm chí giữ kín kế hoạch đảo chính với cả người Mỹ<ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'' NXBNhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, tr. 209</ref>. Ngày [[27 tháng 7]] năm 1963, [[Đại tướng]] [[Lê Văn Tỵ]], Tổng tham mưu trưởng, sang Mỹ chữa trị ung thư phổi, Thiếu tướng [[Trần Thiện Khiêm]], Tham mưu trưởng Liên quân, tạm thời làm Xử lý thường vụ Tổng tham mưu trưởng. Trong một động thái đã được dự tính, ngày [[19 tháng 8]] năm 1963, ông dẫn đầu một phái đoàn gồm một số tướng lĩnh vào [[dinh Gia Long]] để đệ trình Tổng thống Diệm một kế hoạch ban hành tình trạng khẩn cấp để tránh những tác hại lan rộng của [[Biến cố Phật giáo, 1963|Biến cố Phật giáo]]. Vì vậy, ngay ngày hôm sau, ngày [[20 tháng 8]], Tổng thống Diệm đã bổ nhiệm ông làm quyền Tổng tham mưu trưởng, nhằm mục đích thực thi kế hoạch.
 
Trên thực tế, với vai trò này, ông càng có điều kiện đẩy nhanh kế hoạch đảo chính. Chỉ trong vòng 1 tháng, các chỉ huy và đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm đều bị vô hiệu hoặc được điều chuyển ra khỏi Sài Gòn. Và cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính]] thực sự nổ ra ngày [[1 tháng 11]] năm 1963, cũng như cái chết của anh em Tổng thống Diệm một ngày sau đó.
Dòng 77:
Những thời khắc cuối cùng tại Sài Gòn được ông kể lại chi tiết trong hồi ký của mình:
:''“Chiều [[29 tháng 4]]: lúc đến Tòa đại sứ Mỹ, tôi không vào được vì người quá đông nên mọi cửa ra vô đều đóng chặt, tôi phải đi vòng ngã phía đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1- HCM) cũng không vô được. Tôi trở lại Bộ Quốc phòng điện thoại cho Tòa đại sứ Mỹ, nhưng gọi rất khó khăn vì họ đã cắt nhiều đường dây, kiên nhẫn gọi một hồi liên lạc được với ông Polgar (người có trách nhiệm cao nhất của Cơ quan trung ương tình báo Mỹ CIA tại Sài Gòn). Ông dặn tôi đến nhà riêng rồi ông sẽ bốc tôi đi.''
:''“Đến nơi tôi cũng thấy đông nghẹt người đang chờ. Cô thư ký của ông Polgar kêu chúng tôi đến khách sạn Mỹ Lee Hotel gần đài Chiến sĩ tự do. Chúng tôi tới đó thấy cửa đóng mà người chờ đợi để đi cũng quá đông nên đành trở lại nhà ông Polgar ngồi chờ.''<ref>Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'' NXBNhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, tr. 478</ref>
:...
:''"Đang lúc nản lòng, định bỏ cuộc, bỗng cô thư ký của ông Polgar đến, nói nhỏ: “Mình đi chỗ khác!”. Xe chúng tôi theo xe của cô ấy đến đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) gần đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) tại một cao ốc 9 tầng. Tầng dưới là Alliance Francaise của Pháp. Còn 8 tầng trên là văn phòng tình báo CIA của Mỹ. Chúng tôi lên trên sân thượng tầng 9. Tại đó đã có sẵn khoảng 60 người đang chờ trực thăng hạ xuống. Người ta chen lấn nhau để lên máy bay nên tôi đành phải đứng phía sau.''<ref name="NXBNhà xuất bản Xuân Thu 1989">Trần Văn Đôn, ''Việt Nam nhân chứng'' NXBNhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, tr. 479</ref>
 
Trong chuyến đi cuối cùng này, ông tình cờ gặp một người quen cũ là [[Trần Kim Tuyến]], cựu Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị thời Đệ nhất Cộng hòa. Cả hai người ngồi đối diện nhau nhưng đều lặng thinh, không nói câu nào trong suốt thời gian bay ra chiến hạm Hancock.<ref>Larry Berman, ''Perfect Spy'', 2007, p. 221 - 224.</ref>
 
:''“7 giờ 30 tối ngày 29.4.1975, tôi giã từ Sài Gòn. Lúc đó Sài Gòn đã lên đèn, những ngọn đèn lờ mờ như chan hòa nước mắt, tôi giã từ quê hương đất nước, lúc quê hương đất nước đang chuyển mình quặn đau, cái đau đứt ruột (…) Trực thăng chở chúng tôi đáp xuống chiến hạm Hancock. Sáng hôm sau (30.4.1975), khi radio loan tin lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh, hầu hết những người trên tàu đều xúc động. Một nỗi buồn da diết đè nặng tâm hồn mọi người hiện diện. Tất cả đều im lặng. Im lặng nhìn nhau không muốn chuyện trò… đám đông người ở trên tàu đều nhòe nhoẹt nước mắt. Tàu nổ máy rồi rẽ sóng ra khơi”…''<ref name="NXBNhà xuất bản Xuân Thu 1989"/>
 
Sau khi đến Mỹ, ông cùng gia đình định cư tại Fort Chaffee, Arkansas, Hoa Kỳ. Những năm cuối đời, ông cho xuất bản quyển hồi ký chính trị "Việt Nam nhân chứng", kể lại nhiều chi tiết trong cuộc đời mình.