Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tư duy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: NXB → Nhà xuất bản (7) using AWB
Dòng 3:
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa. Hà Nội. 2005); '''Tư duy''' là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt -Bộ [[não]] [[loài người|người]]-. Tư duy phản ánh tích cực [[hiện thực khách quan]] dưới dạng các [[khái niệm]], sự phán đoán, [[lý luận]].v.v...
 
Theo triết học duy tâm khách quan, tư duy là sản phẩm của "ý niệm tuyệt đối" với tư cách là bản năng siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất. Theo George Wilhemer Fridrick Heghen: "Ý niệm tuyệt đối là bản nguyên của hoạt động và nó chỉ có thể biểu hiện trong tư duy, trong nhân thức tư biện mà thôi".<ref>Heghen. Logic học Hê ghen (sách tham khảo). NXBNhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội. 1989.</ref>. Karl Marx nhận xét: "Đối với Heghen, vận động của tư duy được ông nhân cách hóa dưới tên gọi "ý niệm" là chúa sáng tạo ra hiện thực; hiện thực chỉ là hình thức bề ngoài của ý niệm".<ref>Karl Marx. Tư bản. Quyển I. Tập 1. (bản tiếng Pháp). NXBNhà xuất bản Nathal. Paris. 1938. trang 29</ref>
 
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: "Vận động kiểu tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào và được cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh".<ref>Karl Marx. ''Sách đã dẫn ở trên''.</ref> Những luận cứ này còn dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm của [[Ivan Petrovich Pavlov]], nhà sinh lý học, nhà tư tưởng người Nga. Bằng các thí nghiệm tâm-sinh lý áp dụng trên động vật và con người, ông đi đến kết luận: "Hoạt động tâm lý là kết quả của hoạt động sinh lý của một bộ phận nhất định của bộ óc".<ref>Pavlov. Tuyển tập. NXBNhà xuất bản Ngoại văn. Maskva. 1954.</ref>
 
== Lịch sử hình thành và vai trò đối với triết học ==
Dòng 14:
* Giai đoạn cao cấp: Ý niệm tuỵệt đối phủ nhận tự nhiên và trở về với sự tư biện của tư duy và tiếp diễn trong tư duy và trở thành "tinh thần tuyệt đối". Ở giai đoạn này, tư duy phát triển đến mức cao nhất, bao gồm cả ý thức cá nhân, ý thức xã hội dưới các hình thức như tôn giáo, nghệ thuật và triết học.<ref>Heghen. Encyclopédie Philosophie. Etrangère Expess. Moscou. 1960.</ref>
 
Theo triết học duy vậy biện chứng, tư duy xuất hiện trong quá trình [[sản xuất]] [[xã hội]] của [[loài người|con người]]. Trong quá trình đó, con người [[so sánh]] các [[thông tin]], [[dữ liệu]] thu được từ [[nhận thức cảm tính]] hoặc các [[ý nghĩ]] với nhau. Trải qua các quá trình [[khái quát hóa]] và [[trừu tượng hóa]], [[phân tích]] và [[tổng hợp]] để rút ra các [[khái niệm]], [[phán đoán]], [[giả thuyết]], [[lý luận]].v.v... Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là sự [[phản ánh]] khái quát các thuộc tính, các mối [[liên hệ]] cơ bản, phổ biến, các [[quy luật]] không chỉ ở một [[sự vật]] riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật nhất định. Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những [[tri thức]] đã nắm được từ trước.<ref>Từ điển triết học. NXBNhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội. 1981.</ref>
 
Tư duy bắt nguồn từ hoạt động tâm lý. Hoạt động này gắn liền với phản xạ sinh lý là hoạt động đặc trưng của hệ thần kinh cao cấp. Hoạt động đó diễn ra ở các động vật cấp cao, đặc biệt biểu hiện rõ ở thú linh trưởng và ở người. Nhưng tư duy với tư cách là hoạt động tâm lý bậc cao nhất thì chỉ có ở con người và là kết quả của quá trình lao động sáng tạo của con người. Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, lao động là một trong các yếu tố quyết định để chuyển hóa vượn có dạng người thành con người. Từ chỗ là một loài động vật thích ứng với tự nhiên bằng bản năng tự nhiên, con người đã phát triển sự thích ứng đó bằng bản năng thứ hai là tư duy với năng lực trừu tượng hóa ngày càng sâu sắc đến mức nhận thức được bản chất của hiện tượng, quy luật của tự nhiên và nhận thức được chính bản thân mình.<ref name="P. Iudin 1955">M. Rozenthan và P. Iudin. Từ điển triết học. NXBNhà xuất bản ngoại văn. Maskva. 1955. Bản dịch và in lần thứ 3 của NXBNhà xuất bản Sự thật. Hà Nội. 1978</ref>
 
Đối với triết học, tư duy là một khái niệm - phạm trù quan trọng. Khái niệm - phạm trù này giúp lý giải các hoạt động được coi là có tính phi vật chất của cá thể người như giải trí, tín ngưỡng, nghiên cứu, học tập và các hình thức lao động trí lực khác đồng thời, có ảnh hưởng tích cực đối với lao động thể lực. Đối với xã hội, tư duy của cộng đồng người là cơ sở để tạo nên hệ thống tư duy xã hội trong các hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật.v.v... Người ta dựa vào tư duy để nhận thức những quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội, con người và điều chỉnh hành động của mình phù hợp với các quy luật đó.
Dòng 24:
Cơ chế hoạt động cơ sở của tư duy dựa trên hoạt động sinh lý của bộ não với tư cách là hoạt động thần kinh cao cấp. Mặc dù không thể tách rời [[não]] nhưng tư duy không hoàn toàn gắn liền với một bộ não nhất định. Trong quá trình sống, con người giao tiếp với nhau, do đó, tư duy của từng người vừa tự biến đổi qua quá trình hoạt động của bản thân vừa chịu sự tác động biến đổi từ tư duy của đồng loại thông hoạt động có tính vật chất. Do đó, tư duy không chỉ gắn với bộ não của từng cá thể người mà còn gắn với sự tiến hóa của xã hội, trở thành một sản phẩm có tính xã hội trong khi vẫn duy trì được tính cá thể của một con người nhất định.
 
Mặc dù được tạo thành từ kết quả hoạt động [[thực tiễn]] nhưng tư duy có tính độc lập tương đối. Sau khi xuất hiện, sự phát triển của tư duy còn chịu ảnh hưởng của toàn bộ [[tri thức]] mà [[loài người|nhân loại]] đã tích lũy được trước đó ([[lao động]] quá khứ, kể cả [[lao động chân tay]] và [[lao động trí óc]] được tích lũy. Tư duy cũng chịu ảnh hưởng, tác động của các [[lý thuyết]], [[quan điểm]] cùng tồn tại cùng thời với nó. Mặt khác, tư duy cũng có logic phát triển nội tại riêng của nó, đó là sự phản ánh đặc thù logic khách quan theo cách hiểu riêng gắn với mỗi con người. Tính độc lập của tư duy vừa làm cho nó có được tính tích cực, sáng tạo trong quá trình tìm kiếm tri thức mới, vừa là điều kiện nguồn gốc làm cho tư duy dần dần xa rời hiện thực khách quan. Để khắc phục mặt trái này của tư duy, người ta thường sử dụng thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm tính đúng đắn của tư duy.<ref>Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4. (mục từ Tư duy). NXBNhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2005</ref>
 
== Tư duy và ngôn ngữ ==