Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Fyodor Ivanovich Tolbukhin”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tập tin Tolbuhin_fi.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Alan vì lý do: Per c:Commons:Deletion requests/File:Tolbuhin fi.jpg.
n →‎Tiểu sử và sự nghiệp: sửa chính tả 3, replaced: Quốc Xã → Quốc xã using AWB
Dòng 21:
Tolbukhin giữ vị trí này cho đến khi [[Chiến tranh Xô-Đức|Chiến tranh giữ nước vĩ đại]] nổ ra, tháng 8 năm [[1941]], ông trở thành Tham mưu trưởng Phương diện quân Crimea. Từ tháng 5 đến tháng 7 năm [[1942]] ông là Phó tư lệnh Quân khu Stalingrad, sau đó là Tư lệnh Tập đoàn quân số 57 đến tháng 3 năm [[1943]]. Tập đoàn quân của Tolbukhin đã tham chiến trong [[Trận Stalingrad]] dưới sự chỉ huy chung của Thượng tướng [[Andrei Yeriômenko]], người đã đánh giá rất cao khả năng tổ chức và kỹ năng quân sự của Tolbukhin. Sau chiến thắng của Hồng quân ở Stalingrad, ông được thăng chức Tư lệnh Phương diện quân Nam.
 
Tháng 10 năm [[1943]] Phương diện quân Nam được đổi tên thành Phương diện quân Ukraina 4, Tolbukhin đã lãnh đạo phương diện quân này cùng với Phương diện quân Ukraina 3 của tướng [[Rodion Yakovlevich Malinovsky|Rodion Malinovsky]] giải phóng phần lớn lãnh thổ [[Ukraina]] khỏi sự chiếm đóng của quân đội [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]]. Từ tháng 5 năm [[1944]], Tolbukhin được chuyển sang làm Tư lệnh Phương diện quân Ukraina 3 tham gia đánh đuổi quân Đức khỏi các nước vùng [[Balkan]] và [[Romania|Rumani]] từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1944. Ngày [[12 tháng 9]] năm 1944, 2 ngày sau khi người đồng đội Malinovsky được phong Nguyên soái, Tolbukhin cũng được thăng cấp [[Nguyên soái Liên bang Xô viết]]. Trong khi phương diện quân của Malinovsky tiến về hướng Tây Bắc qua [[Hungary]] và [[Nam Tư]], đội quân của Tolbukhin tiến về phía Nam và tham gia đẩy quân Đức ra khỏi phần lớn lãnh thổ [[Bulgaria|Bulgari]]. Trong chiến dịch mùa Đông, ông đã lãnh đạo Hồng quân tiến về phía Tây Bắc, đuổi người Đức khỏi lãnh thổ Nam Tư và sau đó tiến vào Nam Hungary.
 
Sau chiến tranh, Tolbukhin giữ chức Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang phía Nam bao gồm cả khu vực Balkan. Tháng 1 năm [[1947]] ông chuyển về làm Tư lệnh Quân khu Zacapcazơ đến khi mất ngày 17 tháng 10 năm [[1949]].