Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thủ Tiệp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n sửa chính tả 3, replaced: NXB → Nhà xuất bản (2) using AWB
Dòng 3:
 
==Thân thế==
Theo ''Khâm định Việt sử Thông giám cương mục'', Nguyễn Thủ Tiệp còn một tên hiệu nữa là Ba An quân, mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công). Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, đóng giữ huyện Tiên Du, sau đánh đuổi thứ sử [[Dương Huy]], lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên.<ref>Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình - Trương Đình Tưởng, NXBNhà xuất bản Thế giới tr. 36</ref>
 
Theo thần phả và theo nhà nghiên cứu Nguyễn Danh Phiệt, thì ông cùng với 2 sứ quân khác là [[Nguyễn Khoan]] và [[Nguyễn Siêu]] là 3 anh em, tổ tiên vốn là người [[Phúc Kiến]] di cư vào [[Việt Nam]]<ref>Nguyễn Danh Phiệt, "Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước", NXBNhà xuất bản Khoa học xã hội, 1990. tr 29, 30, 33</ref>. Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: [[Nguyễn Khoan]], Nguyễn Thủ Tiệp, [[Nguyễn Siêu]], theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Phù Liệt, [[Thanh Trì]], [[Hà Nội]] thì họ là cháu của Nguyễn Hãng – một danh tướng Bắc triều. Con của Nguyễn Hãng là Nguyễn Nê đem quân sang nước Việt đòi [[Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)|họ Khúc]] triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh ra ba con trai vào các năm 906, 908 và 924. Sau khi Nguyễn Nê chết ba anh em tranh nhau giữ binh quyền, theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải, nhiều quân quyền. Cũng như các anh em của mình, ông cũng là thủ lĩnh địa phương thời [[Ngô Quyền]], chiếm giữ vùng [[Tiên Du]] ([[Bắc Ninh]]) vào khoảng năm 945.<ref>Nguyễn Bạt Tụy 1954: Tên người Việt Nam. - In trong: tập kỷ yếu hội Khuyến Học Việt Nam, Sài Gòn, tr49-50.</ref>
 
==Vũ Ninh Vương==
Dòng 28:
Sau khi Nguyễn Thủ Tiệp mất, nhân dân Ném Đoài, xã Khắc Niệm lập đền thờ. Giữa những năm thập kỷ 60 thế kỷ XX nhà đền chuyển làm kho hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1982 ngôi đền được xây dựng lại, nằm cùng dãy và giáp hồi Cổ Niệm tự, kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm hậu cung 2 gian, tiền đường 5 gian, kết cấu vì đơn giản. Nhà đền lưu giữ một số hiện vật có giá trị như: Một lư hương sành thời Lê, hai chóe đựng nước cúng, một bộ bát bửu, tượng Nguyễn Thủ Tiệp tạc năm 1937, một thần tích bản sao, khắc gỗ năm 1932 và một số đồ thờ khác. Cổ Niệm tự là ngôi chùa Nguyễn Thủ Tiệp phát tâm xây dựng bị phá trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1980, nhân dân địa phương đã chuyển khu chùa về nhà kho của hợp tác xã cải tạo thành chùa để thờ phụng. Năm 2006, làng xây dựng riêng ngôi đình cùng khu đất đền, chùa. Lễ hội lớn nhất trong năm là lễ hội kỷ niệm ngày sinh Thành hoàng Nguyễn Thủ Tiệp từ mồng 4 đến 11 tháng Giêng âm lịch.<ref>[http://baobacninh.com.vn/news_detail/61779/lang-nem-doai-.html Làng Ném Đoài]</ref>
 
Đình Phúc Nghiêm được xây dựng vào thời Lê Sơ, thờ Thành hoàng Nguyễn Thủ Tiệp, là một trong [[12 sứ quân]] có công chiêu binh dẹp loạn, bảo vệ dân làng thoát cảnh loạn ly. Đình Phúc Nghiêm ở huyện [[Tiên Du]], cách đình Tiên Xá khoảng 8 &nbsp;km. Đến thời Lê Trung Hưng, đình được trùng tu và mở rộng với quy mô lớn. Ngôi đình cổ là tòa đại đình lớn gồm 5 gian, mái ngói đao cong, bộ khung gỗ lim, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Hiện đình có kiến trúc kiểu chữ "Đinh" gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ chạm khắc nghệ thuật, mang phong cách truyền thống. Đình Phúc Nghiêm còn bảo lưu được một số tài liệu sưu tầm và cổ vật như bia đá, thần tích, thần sắc sao chụp. Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương. Hội đình (17-2 Âm lịch) hàng năm vẫn giữ được những nét truyền thống với nghi thức tế lễ và các hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao như: vật, đu tiên, hát Quan họ, diễn tuồng, chèo…
 
==Chú thích==