Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Huy Ích”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Phan Huy Ích (1751 - 1822).jpg|phải|nhỏ|Tranh vẽ Phan Huy Ích năm 1790]]
'''Phan Huy Ích''' ([[chữ Hán]]: 潘輝益<ref>[[s:Trang:Viet Nam Su Luoc.djvu/152|Việt Nam sử lược/Quyển II/Tự chủ thời đại/Chương XI]]</ref>; [[1751]] – [[1822]]), tự '''Khiêm Thụ Phủ''', '''Chi Hòa''', [[tên hiệu|hiệu]] là '''Dụ Am''', '''Đức Hiên''', là một viên quan của [[nhà Hậu Lê]] và cũng là một công thần của [[nhà Tây Sơn]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
__TOC__
 
==Tiểu sử==
==Thân thế và học vấn==
Ông tên thật là '''Phan Công Hậu''', sinh ngày 12 tháng Chạp năm [[Canh Ngọ]] (tức [[9 tháng 1]] năm [[1751]]) ở làng [[Thu Hoạch]], huyện [[Thiên Lộc]], [[đức Quang|phủ Đức Quang]], [[xứ Nghệ|trấn Nghệ An]], (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện [[Lộc Hà]], tỉnh [[Hà Tĩnh]])<ref>Danh tướng Việt Nam - Tập 3 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.</ref>. Do kiêng húy của Tuyên phi [[Đặng Thị Huệ]], về sau ông đổi tên là '''Huy Ích'''.
 
Dòng 10:
 
Năm [[1775]], ông cùng người anh vợ là [[Ngô Thì Nhậm]] dự [[thi Hội]] và cùng đỗ [[Tiến sĩ]]. Khoa này có 18 tiến sĩ, và Phan Huy Ích đỗ Hội nguyên Tiến sĩ, đứng đầu số đó. Trước đó, vào năm 1754, cha ông cũng từng đỗ Hội nguyên Tiến sĩ như thế.
==Triều Lê trung hưng==
 
==Quan nghiệp với nhà Lê==
Năm 1776, ông tiếp tục thi đỗ kỳ thi Ứng chế và được triều đình bổ làm Hàn lâm thừa chỉ, rồi làm Đốc đồng tỉnh [[Thanh Hóa]], trông coi việc an ninh. Năm [[1777]], ông được lệnh mang [[ấn kiếm]], [[sắc phong]] tước Cung quận công của vua Lê ban cho [[Nguyễn Nhạc]], nhưng khi vào đến [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], tướng [[Phạm Ngô Cầu]] trấn giữ Phú Xuân cản giữ ông lại, sai [[Nguyễn Hữu Chỉnh]] đi vào [[Quảng Nam]] phong cho Nguyễn Nhạc. Sau đó, ông được thăng Hiến sát sứ [[Thanh Hóa]], trông coi việc xét xử và [[luật pháp]].
 
Cuối năm [[1787]], [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] ra [[Đàng Ngoài|Bắc Hà]] lần thứ hai. [[Lê Chiêu Thống]] chạy sang [[Trung Quốc]] cầu cứu. Phan Huy Ích bỏ lên Sài Sơn ([[Sơn Tây]]), chấm dứt 14 năm làm quan với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh.
==Công thần triềuTriều Tây Sơn==
 
==Công thần triều Tây Sơn==
[[Tháng năm|Tháng 5]] năm [[1788]], [[Nguyễn Huệ]] ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền. Phan Huy Ích cùng [[Ngô Thì Nhậm]], Đoàn Nguyên Tuấn, Nguyễn Thế Lịch (có tên khác là Nguyễn Gia Phan [http://www.google.com.vn/url?sa=t&source=web&cd=1&ved=0CBcQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.yhoccotruyen.htmedsoft.com%2Fdanhy%2Fhtmdocs%2FNguyenGiaPhan.htm&ei=nzyvTIOeOMircfO93cQN&usg=AFQjCNEOShfVwVIDp6kOYyIpw7gw8JWCgA]) ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong làm Tả thị lang Bộ Hộ.
 
Hàng 22 ⟶ 20:
 
Năm [[1792]], về nước, được thăng Thị trung ngự sử ở tòa Nội các rồi Thượng thư bộ Lễ. Cũng trong năm này, vua Quang Trung mất. Ông cố gắng giúp đỡ vua trẻ [[Nguyễn Quang Toản|Quang Toản]], nhưng không ngăn nổi đà suy vi của Tây Sơn.
==Triều Nguyễn==
 
Mùa hạ năm [[1802]], [[vua]] [[Gia Long]] đem quân ra Bắc. Ông bị bắt cùng với [[Ngô Thì Nhậm]], Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Văn Miếu]]. Năm 1814, ông về lại quê [[Thu Hoạch]] dạy học và sau đó lại ra [[Sài Sơn]] an dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn chỉnh bản dịch ''[[Chinh phụ ngâm]]'', mà người diễn Nôm đầu tiên tương truyền là bà [[Đoàn Thị Điểm]]. Ngoài ra, ông còn sáng tác ''[[Dụ Am thi văn tập]]'', ''[[Dụ Am ngâm lục]]''. Vào năm 1804, [[Gia Long]] nhân muốn định lại tên nước, bèn cử Phan Huy Ích soạn một bài tuyên cáo, nội dung được ông sao lại trong ''[[Dụ Am thi văn tập]]'', có đoạn như sau : "''Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết : Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Đến thời Đinh Tiên hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gầy dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài [...] Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ. Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phước thanh ninh [...]''''<ref>[http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-CN/Quoc-hieu-Viet-Nam-Y-chi-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc-2600.html Quốc hiệu Việt Nam]</ref>. Ngày 20 tháng 2 năm [[Nhâm Ngọ]] (tức [[13 tháng 3]] năm [[1822]]), Phan Huy Ích tại quê nhà.
==Công nghiệp cho hậu thế==
Mùa hạ năm [[1802]], quân [[Gia Long|Nguyễn Ánh]] ra Bắc. Ông bị bắt cùng với [[Ngô Thì Nhậm]], Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Văn Miếu]]. Năm 1814 ông về quê làng [[Thu Hoạch]] dạy học và sau đó lại ra [[Sài Sơn]] an dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn chỉnh bản dịch [[Chinh phụ ngâm]] (tác giả Đặng Trần Côn), mà người diễn Nôm đầu tiên tương truyền là bà [[Đoàn Thị Điểm]].
 
Ông còn sáng tác Dụ Am văn tập, Dụ Am ngâm lục.
 
Ông mất ngày 20 tháng Hai năm [[Nhâm Ngọ]] (tức [[13 tháng 3]] năm [[1822]]) tại quê nhà.
 
==Chú thích==