Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Huy Ích”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
 
Năm [[1775]], ông cùng người anh vợ là [[Ngô Thì Nhậm]] dự [[thi Hội]] và cùng đỗ [[Tiến sĩ]]. Khoa này có 18 tiến sĩ, và Phan Huy Ích đỗ Hội nguyên Tiến sĩ, đứng đầu số đó. Trước đó, vào năm 1754, cha ông cũng từng đỗ Hội nguyên Tiến sĩ như thế.
===Triều Lê trung hưng===
Năm 1776, ông tiếp tục thi đỗ kỳ thi Ứng chế và được triều đình bổ làm Hàn lâm thừa chỉ, rồi làm Đốc đồng tỉnh [[Thanh Hóa]], trông coi việc an ninh. Năm [[1777]], ông được lệnh mang [[ấn kiếm]], [[sắc phong]] tước Cung quận công của vua Lê ban cho [[Nguyễn Nhạc]], nhưng khi vào đến [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], tướng [[Phạm Ngô Cầu]] trấn giữ Phú Xuân cản giữ ông lại, sai [[Nguyễn Hữu Chỉnh]] đi vào [[Quảng Nam]] phong cho Nguyễn Nhạc. Sau đó, ông được thăng Hiến sát sứ [[Thanh Hóa]], trông coi việc xét xử và [[luật pháp]].
 
Cuối năm [[1787]], [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] ra [[Đàng Ngoài|Bắc Hà]] lần thứ hai. [[Lê Chiêu Thống]] chạy sang [[Trung Quốc]] cầu cứu. Phan Huy Ích bỏ lên Sài Sơn ([[Sơn Tây]]), chấm dứt 14 năm làm quan với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh.
===Triều Tây Sơn===
[[Tháng năm|Tháng 5]] năm [[1788]], [[Nguyễn Huệ]] ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền. Phan Huy Ích cùng [[Ngô Thì Nhậm]], Đoàn Nguyên Tuấn, Nguyễn Thế Lịch (có tên khác là Nguyễn Gia Phan [http://www.google.com.vn/url?sa=t&source=web&cd=1&ved=0CBcQFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.yhoccotruyen.htmedsoft.com%2Fdanhy%2Fhtmdocs%2FNguyenGiaPhan.htm&ei=nzyvTIOeOMircfO93cQN&usg=AFQjCNEOShfVwVIDp6kOYyIpw7gw8JWCgA]) ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong làm Tả thị lang Bộ Hộ.
 
Dòng 20:
 
Năm [[1792]], về nước, được thăng Thị trung ngự sử ở tòa Nội các rồi Thượng thư bộ Lễ. Cũng trong năm này, vua Quang Trung mất. Ông cố gắng giúp đỡ vua trẻ [[Nguyễn Quang Toản|Quang Toản]], nhưng không ngăn nổi đà suy vi của Tây Sơn.
===Triều Nguyễn===
Mùa hạ năm [[1802]], [[vua]] [[Gia Long]] đem quân ra Bắc. Ông bị bắt cùng với [[Ngô Thì Nhậm]], Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Văn Miếu]]. Năm 1814, ông về lại quê [[Thu Hoạch]] dạy học và sau đó lại ra [[Sài Sơn]] an dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn chỉnh bản dịch ''[[Chinh phụ ngâm]]'', mà người diễn Nôm đầu tiên tương truyền là bà [[Đoàn Thị Điểm]]. Ngoài ra, ông còn sáng tác ''[[Dụ Am thi văn tập]]'', ''[[Dụ Am ngâm lục]]''. Vào năm 1804, [[Gia Long]] nhân muốn định lại tên nước, bèn cử Phan Huy Ích soạn một bài tuyên cáo, nội dung được ông sao lại trong ''[[Dụ Am thi văn tập]]'', có đoạn như sau : "''Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết : Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Đến thời Đinh Tiên hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gầy dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài [...] Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ. Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phước thanh ninh [...]''''<ref>[http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-CN/Quoc-hieu-Viet-Nam-Y-chi-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc-2600.html Quốc hiệu Việt Nam]</ref>. Ngày 20 tháng 2 năm [[Nhâm Ngọ]] (tức [[13 tháng 3]] năm [[1822]]), Phan Huy Ích tại quê nhà.