Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Huệ Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã khóa “Lý Huệ Tông”: Bút chiến thiếu tính xây dựng ([Sửa đổi=Cấm mọi thành viên (trừ bảo quản viên)] (hết hạn 12:51, ngày 1 tháng 4 năm 2016 (UTC)) [Di chuyển=Cấm mọi thành viên (trừ bảo qu…
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox Royalty
| tên = Lý Huệ Tông
| native name = 李惠宗
| tước vị = VuaHoàng đế Việt Nam
| thêm = vietnam
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = Vua[[Hoàng đế]] [[nhà Lý]]
| tại vị = [[1211]] – [[12251224]]
| kiểu tại vị = Trị vì
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Lý Cao Tông]]</font>
| nhiếp chính = [[Đỗ Kính Tu]]<br/>[[Tô Trung Từ]]<br/>[[Đàm Dĩ Mông]]<br/>[[Trần Tự Khánh]]<br/>[[Trần Thủ Độ]]
| kế nhiệm = <font color="blue"> [[Lý Chiêu Hoàng]] </font>
| tên đầy đủ = Lý (Hạo) Sảm <ref>Theo ''Việt Sử lược''</ref>
| chức vị 1 = [[Thái thượng hoàng]] [[Nhà Lý]]
| tại vị 1 = [[1224]]-[[1226]]
| kiểu tại vị = trị vì
| tiền nhiệm 1 = [[Sùng Hiền Hầu]]
| kế nhiệm 1 = Không có , triều đại diệt vong
| tên đầy đủ = Lý (Hạo) Sảm (李昊旵)<ref>Theo ''Việt Sử lược''</ref>
| kiểu tên đầy đủ = Tên
| hoàng tộc = [[Nhà Lý]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| niên hiệu= [[Kiến Gia]] ([[1211]] – 10/[[1224]]建嘉)
| thông tin phối ngẫu = ẩn
| phối ngẫu =
| kiểu phối ngẫu =
| vợ = [[Trần Thị Dung]]
| chồng =
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Thuận Thiên (cônghoàng chúahậu)|CôngThuận chúaThiên Thuậncông Thiênchúa]]<br />[[Lý Chiêu Hoàng|Công chúa Phật Kim]]
| miếu hiệu = [[Huệ Tông]] (惠宗)
| thụy hiệu = <font color="grey">Tự Thiên Thống Ngự Khâm Nhân Hoành Hiếu hoàng đế</font><br/>資天統御欽仁宏孝皇帝
| thụy hiệu =
| cha = [[Lý Cao Tông]]
| mẹ = [[An Toàn hoàng hậu]] họ Đàm
| sinh = [[1194]]
| nơi sinh = [[Thăng Long]]
| mất = [[3{{ngày thángmất 9]], [[tuổi|1226]]|9|3|1194|7|11}}
| nơi mất = [[Chùa Chân Giáo]], [[Thăng Long]], [[Đại Việt]]
| ngày an táng =
| nơi an táng = [[Thọ Lăng Thiên Đức]], [[Đại Việt]]
| tôn giáo = [[Phật giáo]]}}
'''Lý Huệ Tông''' ({{hn|ch=李惠宗}}, [[chữtháng Hán7]]: 李惠宗, [[1194]] – [[3 tháng 9]], [[1226]]), còn được gọi '''Kiến Gia hoàng đế''' (建嘉皇帝)<ref>Vì ông chỉ dùng một niên hiệu duy nhất Kiến Gia (建嘉) trong suốt thời gian trị vì</ref>, là vị vua[[hoàng đế]] thứ tám8 của [[triều đại]] [[nhà Lý]],. Ông cai trị từ năm [[1211]] đến năm [[1224]]., Ôngtổng têncộng thật13 năm; '''Lý Sảm'''nhượng (李旵)vị haytrở '''Lýthành Hạo[[Thái Sảm''',thượng sinhhoàng]] tạitrong kinhvòng đô1 Thăng Long,năm ([[1224]] Nội- [[1225]]). Ông là một trong 2 vị Thái thượng hoàng duy nhất của nhà Lý, người kia là [[ViệtSùng Hiền hầu|Lý Cung NamHoàng]].
 
Huệ Tông sinh vào thời nhà Lý đã quá suy yếu, uy quyền của triều đình không đủ để khuất phục phiên trấn, dẫn đến mỗi nơi lại tự gây dựng thế lực chia sẻ đất nước. Bên cạnh đó, việc không quyết đoán được trọng dụng ai, loại bỏ ai khiến tình hình càng loạn lạc. Bản thân Huệ Tông lại quá chung tình, tuy đối đầu với [[Trần Tự Khánh]] mà vẫn thương yêu [[Trần Thị Dung]] khi đang dùng [[Đoàn Thượng]], tạo nên sự mâu thuẫn. Cuối cùng, ông vì quá yêu Trần thị mà quyết định trọng dụng Trần Tự Khánh, phong tước và dùng họ làm ngoại thích, trấn áp phiên trấn. Triều đình lại tỏ rõ thiên uy đối với các nơi, nhưng thực sự họ Lý đã mất hoàn toàn quyền lực, tất cả đều theo sự sắp xếp của [[Trần Tự Khánh]], [[Trần Thừa]].
 
== Thân thế ==
Ông tên thật là '''Lý Sảm''' (李旵) hay '''Lý Hạo Sảm''' (李昊旵), là con trưởngtrai thứ 3 của [[Lý Cao Tông|Cao Tông Quang Hiếu hoàng đế]], mẹ là [[An Toàn hoàng hậu]] họĐàm thị, con gái Đại tướng quân [[Đàm Thì Phụng]], có người chú trong họ là [[Đàm Dĩ Mông]] đang làm tướng trong triều. Ông sinh vào [[tháng 7]] năm [[Giáp Dần]] (1194). Năm [[Mậu Thìn1194]] (1208). Ngoài ra, ông đượccòn vua cha2 lậpngười làmem [[Tháigái tử]]cùng mẹ, lúcnhưng đókhông ông 15tên hiệu là tuổi.
 
Năm [[Mậu Thìn]] ([[1208]]), ông được Cao Tông hoàng đế lập làm [[Thái tử]], lúc đó ông 15 tuổi. Trong thời gian này, mẹ ông là Đàm hoàng hậu dần can vào chính sự, thế lực họ Đàm dẫn đầu bởi Đàm Dĩ Mông dần được trọng dụng.
 
== Chạy loạn về Hải Ấp ==
{{Chính|Lý Cao Tông|Loạn Quách Bốc}}
Năm [[1209]], vua Cao Tông nghe lời gian thần [[Phạm Du]], giết trung thần [[Phạm Bỉnh Di]]. Bộ tướng của Bỉnh Di là [[Quách Bốc]] khởi binh báo thù cho chủ, đánh vào kinh thành, lập con thứ của vua là [[Lý Thẩm|Lý Thầm]] làmlên vuangôi. Vua Cao Tông chạy lên [[Quy Hoá]], thái tử Sảm cùng mẹĐàm hoàng hậu và hai em gái chạy về Hải Ấp, nơi một điền chủ có thế lực trong vùng là [[Trần Lý]] cai quản.
 
Trần Lý và [[Tô Trung Từ]] bèn đón vương tử Sảm lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thái tử Sảm thấy con gái của Trần Lý là [[Trần Thị Dung]] có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhân đó Trần Lý được phong làm '''Minh Tự''', Tô Trung Từ làm '''Điện tiền chỉ huy sứ'''.
 
Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ, Phạm Ngu... nênCao vuaTông hoàng Cao Tôngđế ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với họ Đoàn ([[Đoàn Thượng]], Đoàn Văn Lôi) ở vùng Hồng. Nhưng Du trễ nải công việc, bị quân của hào trưởng [[Bắc Giang]] là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải giết chết.
 
Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc để lập công với nhà Lý. Cuối năm [[1209]], loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Do Phạm Du đã chết mà thế lực Trung Từ mạnh nên vua Cao Tông buộc phải dựa vào Trung Từ. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thầm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được làm chức thái[[Thái]].
 
Đầu năm [[1210]], Cao Tông hoàng đế đau yếu, mới sai người đón tháiThái tử Sảm về kinh. ThángTrần 10Thị nămDung 1210,do bị CaoĐàm Tônghoàng chết. Thái tử Sảmhậu nốighét ngôibỏ, tứcbị buộc phải Huệ Tông.lại ViệcHải đầu tiên vua làm là sai Phạm Bố và Tô Trung Từ đón [[Trần Thị Dung]] vào cungẤp, lập làm nguyên phi;không cho Trung Từ làmcùng ''Thái tử phụvề chính'';kinh phongsư, anhcũng Thịkhông Dungcông nhận Thuậnhôn Lưuước bá [[Trần Tự Khánh]] làm ''Chương Thành hầu''. Vua lại còn tin tưởng, giao quyền bính chogiữa Thái úy Đàm Dĩ Mông là một người nhu nhượctửthiếu họcTrần thứcthị.
 
Tháng 10 năm [[1210]], Cao Tông hoàng đế băng hà, Thái tử Sảm nối ngôi, tức là '''Lý Huệ Tông'''. Đàm hoàng hậu trở thành [[Hoàng thái hậu]], cùng Huệ Tông nghe chính sự, đại thần [[Đỗ Kính Tu]] được phong làm [[Thái úy]] phụ chính, điều hành triều đình.
 
Sau khi lên ngôi, Huệ Tông liền sai sai [[Phạm Bố]] và Tô Trung Từ đón [[Trần Thị Dung]] vào cung, nhưng Trung Từ lúc đó đang tranh giành tếh lực với Đỗ Kính Tu nên không cho.
 
== Nội loạn ==
{{Chính|Tô Trung Từ|Trần Tự Khánh}}
 
=== Ngả theo họ Đoàn ===
Tuy loạn Quách Bốc bị dẹp nhưng nhiều nơi còn cát cứ chưa hàng phục triều đình. Nhiều hào trưởng địa phương, tướng triều đình mang quân ly khai.
 
Xác Cao Tông chưa kịp chôn, trong triều đã xảy ra biến loạn. [[Tô Trung Từ]] trở thành quyền thần trong triều. [[Tháng 12]] năm [[1210]], [[Đỗ Kính Tu]] nhận ủy thác của vua trước là Cao Tông mưu giết Trung Từ nhưng không xong, bị Trung Từ bắt dìm chết dưới nước ở bến Đại Thông. Sau đó Nội hầu [[Đỗ Thế Quy]] cũng mưu phát binh giết Trung Từ không thành, cũng bị Trung Từ giết chết.
 
Huệ Tông sợ hãi thế lực họ Trần, liền đón Trần Thị Dung và lập làm ''Nguyên phi'' (元妃); cho Trung Từ làm ''Thái uý phụ chính''; phong anh Thị Dung là Thuận Lưu bá [[Trần Tự Khánh]] làm ''Chương Thành hầu'' (章成侯).
Tháng 7 năm 1211, Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công chúa Thiên Cực, bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết<ref>Theo ''Việt sử lược'', trước đó công chúa Thiên Cực đã từng tư thông với gian thần Phạm Du</ref>. Con rể Trung Từ là tướng Nguyễn Ma La bị tướng dưới quyền Nguyễn Trinh giết.
 
Tháng 7 năm [[1211]], Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công[[Công chúa Thiên Cực (nhà Lý)|Thiên Cực công chúa]], bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết<ref>Theo ''Việt sử lược'', trước đó công chúa Thiên Cực đã từng tư thông với gian thần Phạm Du</ref>. Con rể Trung Từ là tướng Nguyễn Ma La bị tướng dưới quyền Nguyễn Trinh giết. Sau [[Trần Thừa]] lừa được và giết Trinh, thế lực của Tô Trung Từ bị sụp đổ hoàn toàn.
Trần Thừa lập kế giết Nguyễn Trinh. Trần Tự Khánh nhân lúc kinh thành bỏ trống, lập tức mang quân về kinh sư, an táng người cậu Tô Trung Từ ở làng Hoạch. Các tướng cát cứ ở Hồng châu là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nói vu Trần Tự Khánh với vua Huệ Tông rằng:
 
Sau khi quyền thần Tô Trung Từ qua đời, Đàm thái hậu trọng dụng Thái úy [[Đàm Dĩ Mông]], vốn là một người nhu nhược và thiếu học thức, chính sự triều Lý rơi vào họa [[ngoại thích]] [[chuyên quyền]].
 
Trần Thừa lập kế giết Nguyễn Trinh. Trần Tự Khánh nhân lúc kinh thành bỏ trống, lập tức mang quân về kinh sư, an táng người cậu Tô Trung Từ ở làng Hoạch. Các tướng cát cứ ở Hồng châu là [[Đoàn Thượng]][[Đoàn Văn Lôi]] nói vu Trần Tự Khánh với vua Huệ Tông rằng:
:''"Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập"''.
 
Huệ Tông tin là thật, nổilại giậnnghe lời gièm pha của Đàm thái hậu, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ (御女). Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu[[Hầu tước|Hầu]] cho Đoàn Thượng.
 
=== Bỏ chạy lên Lạng Châu ===
Tuy nhiên, Trần Tự Khánh liên minh với [[Nguyễn Tự]][[Quốc Oai]] đánh bại họ Đoàn. Sau đó lại nhân khi Tự chết, Trần Tự Khánh dụ hàng tướng của Tự là [[Nguyễn Cuộc]], kiêm tính vùng Quốc Oai.
 
Huệ Tông không muốn dựa vào họ Trần nhưng thấy thế lực họ Trần mạnh lên, một mặt truyền cho văn võ bá quan đều phải nghe mệnh lệnh Trần Tự Khánh; mặt khác, Huệ Tông lại cùng với Thái hậu Đàm thị và một số cận thần vẫn ngầm mưu diệt họ Trần.
 
Đầu năm [[1213]], Thái hậu sai người đi với các tướng sĩ ở đạo Phù Lạc ở đạo [[Bắc Giang]], hẹn ngày cùng phát binh đánh Tự Khánh. Đúng ngày đã định, các tướng [[Phan Thế]][[Phù Lạc]], [[Ngô Mãi]] ở [[Bắc Giang]] tiến đến cửa Đại Hưng (cửa nam thành [[Thăng Long]]). Tự Khánh đang ở bến Đại Thông, nghe tin đó liền kéo quân lên kinh sư, vào cấm thành, đốt [[cầu Ngoạn Thiềm]] rồi lại trở về Đại Thông.
 
Huệ Tông bèn cùng tháiThái sư Đàm Dĩ Mông tự làm tướng, hẹn với quân Hồng châu đi đánh Tự Khánh, đến Mễ Sở gặp quân của họ Trần do [[Vương Lê]], [[Nguyễn Cải]] chỉ huy. Hai bên chưa giao chiến, quân của Lê, Cải mới hò reo tiến lên, quân triều đình đã tự tan vỡ. Vương Lê, Nguyễn Cải bắt được thuyền rồng. Cánh quân đạo [[Bắc Giang]] do tháiThái sư Đàm Dĩ Mông thống xuất tới bến An Diên (Thường Tín, [[Hà Tây]]) thì bị quân của Trần Thừa tiến đánh.
 
Em họ Trần Tự Khánh là [[Trần Thủ Độ]] cùng [[Trần Hiến Sâm]] ở tả ngạn cũng tiến đánh thắng quân triều đình. Các tướng họ Trần khác là [[Phan Lân]], [[Nguyễn Nộn]] từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa đánh thắng các tướng ở Hồng châu là [[Đoàn Cấm]], [[Vũ Hốt]]. Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu, ở nhà phò mã, đồng thời là quan Nội hầu Vương Thượng (chồng công chúa Thiên Cực).
 
Trần Tự Khánh chiếm được kinh đô, sai người đem thư lên Lạng Châu gặp Huệ Tông để rước về nhưng Huệ Tông không nghe.
 
=== Dựa vào Nguyễn Nộn ===
Không đón được Huệ Tông về kinh, Tự Khánh đón một người con của vua [[Lý Anh Tông]] là [[Huệ Văn vương]] lập làmlên vua mớingôi, hiệu là ''Nguyên Vương'', cải nguyên là '''Càn Ninh'''.
 
Các bộ tướng của Trần Tự Khánh là [[Đỗ Bị]], Nguyễn Nộn phản lại Tự Khánh khiến tình hình thêm rối ren. Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, sau khi đánh bại một cuộc tấn công của họ Đoàn bèn phản lại Trần Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô rồi đón vuaNguyên mới là Càn NinhVương xuống hành cung Lý Nhân ([[Hà Nam]]).
 
[[Nguyễn Nộn]] đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và thái hậu đang ở Nam Sách trở về [[Thăng Long]], phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống họ Trần. Cục diện trong nước lúc này đại thể hình thành ba thế lực: Phía bắc là Nguyễn Nộn, phía đông là Đoàn Thượng, phía nam là Trần Tự Khánh.
Hàng 89 ⟶ 102:
 
=== Quay về với họ Trần ===
Đầu năm [[1214]], Huệ Tông chạy đến hương Bình Hợp (xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, [[Hà Tây]]), Trần Tự Khánh được hào trưởng địa phương Đỗ Năng Tể giúp đỡ lấy lại Bình Hợp, rồi đem quân bao vây Thăng Long, đốt cung điện, phá nhà cửa. Huệ Tông phải dựng lều tranh để ở.
 
Đầu năm [[1216]], Huệ Tông lại lập Trần Thị Dung (trước bị giáng xuống làm ngự nữ) làm '''Thuận Trinh phu nhân''' (順貞夫人), tiếp tục sủng ái như trước. Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh.
 
Tháng 4 năm [[1216]], các tướng ở Cảo Xã (Nhật Tảo, [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]) là Đỗ Át, Đỗ Nhuế chống lại triều đình. Lý Huệ Tông dựa vào Lý Bát, sai Bát đánh lại, nhưng không thắng. Trước tình thế đó, Huệ Tông đành lại quay về nương nhờ anh em họ Trần.
 
Khi đó trong triều, Đàm Thái hậu ngày ngày muốn giết Trần Thị Dung, sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết. Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghỉ lại ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón.
Hàng 100 ⟶ 113:
 
== Phát điên ==
Tháng 12 năm [[1216]], Thuận Trinh phu nhân Trần Thị Dung được phong làm hoàng[[Hoàng hậu]]. Từ lúc đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều. Tự Khánh làm ''Phụ chính thái uý'', Trần Thừa làm ''Nội thị phán thủ''. Trần Thừa cho đúc vũ khí, dần dần chấn chỉnh lại quân đội. Huệ Tông lại bị trúng phong, đau yếu luôn, không đi đâu được, lại không sinh được hoàng tử, chỉ có toàn công chúa.
 
Vua Huệ Tông lại bị trúng phong, đau yếu luôn, không đi đâu được, lại không sinh được hoàng tử, chỉ có toàn công chúa.
 
Tháng 3 năm Đinh Sửu (1217), vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, và múa hát:
Hàng 110 ⟶ 121:
Từ sớm đến chiều không nghỉ, khi múa xong thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh.
 
Chính sự giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Tự Khánh ra tay đánh dẹp các lực lượng cát cứ của Đỗ Bị, Lý Bát, Hà Cao. Đoàn Thượng thấy thế lực họ Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vươngVương và vẫn giữ vùng Hồng châu.
 
Năm [[1223]], Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là [[Trần Thủ Độ]]. Anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong là ''Phụ quốc Thái uý''.
 
Năm [[1224]], bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa, lại phong [[Trần Thủ Độ]] <ref>Em họ và sau này là chồng của Trần Thị Dung</ref> làm ''Điện tiền chỉ huy sứ''. Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 8 tuổi, tức là [[Lý Chiêu Hoàng]]. Huệ Tông lên làm thái[[Thái thượng hoàng]] và đi tu ở [[chùa BútChân ThápGiáo]] (Hàthuộc dãy Nội)|chùa Búttrong Tháp]]Hoàng cung, lấy pháp danh là '''Huệ Quang đại sư'''.
 
== Bị bức tử ==
[[Tập tin:Den do.jpg|nhỏ|phải|Phương đình [[Đền Đô]], tức đền Lý Bát đế thờ các vua nhà Lý ở Bắc Ninh]]
Không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là [[Trần Thái Tông|Trần Cảnh]], tức là [[Trần Thái Tông]]. Nhà Lý mất về tay [[nhà Trần]] từ đó (1225).
 
Sau khi làm sư, Huệ Tông vẫn thường đi dạo chơi trong kinh thành. Một hôm đi qua chơi chợ Đông, dân chúng nhận ra, xúm lại xem, có người còn khóc thương.
 
Năm [[1226]], Trần Thủ Độ sợ lòng dân nhớ vua cũ, bèntìm chuyểncách giết chết ông. Một lần Thủ Độ thấy Huệ QuangTông vàonhổ chùacỏ Chân Giáo.vườn, Thủ Độ nói:
 
Một lần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhổ cỏ ở vườn, Thủ Độ nói:
 
:''Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu''.
Hàng 136 ⟶ 145:
:''Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế''.
 
HạoHuệ SảmTông mất ngày mồng 10 tháng 8 năm [[Bính Tuất]] (tức [[3 tháng 9]] năm [[1226]]), thọ 33 tuổi, làm vua 14 năm, đi tu 2 năm. Thủ Độ cho hỏa táng xác ông, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là [[Huệ Tông]].
 
Theo [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]], đời sau có người làm phép chiết tự cho rằng: tên ông là Sảm, theo Hán tự thì bên trên chữ ''nhật'' là mặt trời, bên dưới chữ ''sơn'' là núi, chữ "Sảm" nghĩa là "mặt trời gác núi"; theo nghĩa đó mà suy thì đến đời Lý Sảm, mặt trời [[nhà Lý]] sẽ tắt.
Hàng 191 ⟶ 200:
{{Vua nhà Lý}}
}}
 
{{Lịch sử Việt Nam thời Lý}}
 
[[Thể loại:Vua nhà Lý|Huệ Tông]]