Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Thánh Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Sáng tác văn thơ: sửa chính tả 3, replaced: Nxb → Nhà xuất bản (2) using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 2:
| tên = Lê Thánh Tông
| native name = 黎聖宗
| tước vị = [[
| thêm = vietnam
| cỡ hình = 225px
| hình = 206ThoiLe LeThanhTong.jpg
| ghi chú hình = Tượng thờ Lê Thánh Tông đặt tại [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám]] (Hà Nội).
| chức vị =
| tại vị = [[1460]] – [[1497]]
| kiểu tại vị = Trị vì
| tiền nhiệm = <font color="grey">[[Lê Nghi Dân|Lệ Đức hầu]]</font>
| nhiếp chính = [[Nguyễn Xí]]<br/>[[Đinh Liệt]]
| kế nhiệm = <font color="blue">[[Lê Hiến Tông]]</font>
| hoàng tộc = [[Nhà Hậu Lê]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| tên đầy đủ = Lê Hạo (黎灝)<br/> Lê Tư Thành (黎思誠)
| kiểu tên đầy đủ = Tên
| tước hiệu =
| niên hiệu = Quang Thuận
| miếu hiệu = [[Thánh Tông]] (聖宗)
| thụy hiệu = <font color="grey">Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu
| vợ = [[Trường Lạc hoàng hậu|Huy Gia Thuần hoàng hậu]]<br/>[[Nhu Huy hoàng hậu|Nhu Huy Thuần hoàng hậu]]
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Lê Hiến Tông]]<br/>Lương Vương [[Lê Thuyên]]<br/>Tống Vương [[Lê Tung]]<br/>Đường Vương [[Lê Cảo]]<br/>Kiến Vương [[Lê Tân]]<br/>Phúc Vương [[Lê Tranh (Phúc vương)|Lê Tranh]]<br/>Diễn Vương [[Lê Thông]]<br/>Quảng Vương [[Lê Tảo]]<br/>Lâm Vương [[Lê Tương]]<br/>Ứng Vương [[Lê Chiêu]]<br/>Nghĩa Vương [[Lê Cảnh]]<br/>Trần Vương [[Lê Kinh]]<br/>Triệu Vương [[Lê Toan]]<br/>Kinh Vương [[Lê Kiện]]<br/>[[Lôi Ý công chúa]]<br/>[[Lan Minh công chúa]]<br/>[[Minh Kính công chúa]]<br/> ''Và 17 công chúa khác''
| cha = [[Lê Thái Tông]]
| mẹ = [[Ngô Thị Ngọc Dao|Quang Thục Văn hoàng hậu]]
| sinh = [[20 tháng 7]], năm [[1442]]
| nơi sinh = Chùa Huy Văn (nay thuộc quận [[Đống Đa]], [[Hà Nội]])
| mất = {{ngày mất và tuổi|1497|1|30|1442|7|20}}
| nơi mất = [[Bảo Quang điện]], [[Đông Kinh]]
| nơi an táng = Chiêu Lăng (昭陵)
}}
'''Lê Thánh Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎聖宗; [[20 tháng 7]], [[1442]] - [[30 tháng 1]], [[1497]]), là
== Tiểu sử ==
[[Tháng 6]], năm Đại Bảo thứ nhất ([[1440]]), Ngô thị nhập cung khi 14 tuổi, được phong làm ''Tiệp dư'' (婕妤), ở tại
Khi Lê Tư Thành sinh ra, ông được sách Đại Việt sử ký toàn thư miêu tả: ''’’Thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước’’''<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 429</ref>
Năm Thái Hòa thứ 3 ([[1445]]), Lê Tư Thành được phong làm '''Bình Nguyên vương''' (平原王), làm phiên vương vào ở kinh sư, học cùng các vương khác ở [[Kinh diên]]. Các quan ở Kinh diên như [[Trần Phong
== Lên ngôi ==
Năm Kỷ Mão ([[1459]]), năm thứ 6 niên hiệu Diên Ninh, [[mùa đông
Sau đó, các huân hựu đại thần gồm Thái phó Á quận hầu [[Nguyễn Xí]], [[Đinh Liệt]], Nhập nội kiểm hiệu Á thượng hầu [[Lê Lăng]], Tư mã tham dự triều chính Đình thượng hầu [[Lê Niệm
Ngày [[6 tháng 6]], năm [[Canh Thìn
{{cquote|''"Ngôi trời khó khăn, thần khí rất trọng, nếu không phải là bậc đại đức, thì sao có thể kham nổi. Nay Gia Vương thiên tư sáng suốt, hùng tài đại lược, hơn hẳn mọi người, các vương không ai so được, lòng người đều theo, đã biết ý trời đã quyết".|||Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ}}’’<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 428,429,430</ref>
Ngày [[8 tháng 6]], Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi ở [[điện Tường Quang]], đổi niên hiệu là '''Quang Thuận''' (光順), đại xá thiên hạ<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 428,429,430</ref>
Hàng 63 ⟶ 62:
{{Chính|Luật Hồng Đức}}
Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông<ref>Giáo sư Oliver Oldman, chủ nhiệm khoa Luật Á Đông của [[Đại học Harvard]] đánh giá cao [[Luật Hồng Đức]], coi nó là hệ thống luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm luật pháp [[Phương Tây|Tây phương]] [[cận hiện đại]]</ref>,
nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một [[pháp quyền#Nhà nước pháp quyền|nhà nước pháp quyền]] sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của [[Nho giáo]] làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành [[luật pháp]], nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, ''lấy dân làm gốc''.
Dòng 83:
===Quân sự===
Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các ''vệ quân năm đạo''. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính và là tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị.
Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển [[Vịnh Hạ Long|Hạ Long]] là một bài thơ đề trên vách núi đá mà sau này dân [[Đại Việt]] gọi tên là [[núi Bài Thơ]] ở [[hạ Long (thành phố)|thành phố Hạ Long]] ngày nay. Việc canh phòng và khuyến khích các quan lại ở biên cương thường cảnh giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình [[nhà Minh]] rất tôn trọng và có phần e ngại. Trong sử Việt còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra sắc chỉ phải cảnh giác với lực lượng nội gián là các gia nô người Ngô (số người [[nhà Minh]] tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước đây của Thái Tổ [[Lê Thái Tổ|Lê Lợi]]).
Theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kĩ năng chế tạo vũ khí cực kì tinh xảo của Đại Việt thời [[nhà Hồ]] về vũ khí tầm xa như hỏa thương, hỏa hổ, súng thần công,... hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với [[nhà Minh]] đã tạo nên cho Đại Việt một kho vũ khí đa dạng và hùng mạnh, có thể vượt xa so với vũ khí
Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm [[lương khô]] thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại [[lương khô]] này có thể cất giữ vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.
Hàng 195 ⟶ 196:
*[[Văn minh cổ súy]] (文明鼓吹): Tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an.
*[[Chinh Tây kỷ hành]] (征西紀行): Tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm 30 bài.
*[[Cổ Tâm bách vịnh]] (古心百詠): Tập thơ họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú<ref>Phan Huy Chú. 1961. Lịch triều hiến chương loại chí. Phần Văn tịch chí. (Đào Duy Anh hiệu đính).
*[[Châu cơ thắng thưởng]] (珠璣勝賞): Vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như [[chùa Sài Sơn]], [[núi Chiếu Bạch]], [[động Long Quang]],... gồm 20 bài.
*[[Anh hoa hiếu trị]] (英華孝治)
Hàng 201 ⟶ 202:
*[[Xuân vân thi tập]] (春雲詩集): 1 tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không rõ thời điểm biên tập.
Số lượng tác phẩm thi văn của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài<ref>Mai Xuân Hải. 2007. Lê Thánh Tông và thơ chữ Hán. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”.
Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong [[Hồng Đức quốc âm thi tập]] (洪 德國音詩集). Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm [[Thập giới cô hồn quốc ngữ văn]] (十戒孤魂國語文) có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV.
Hàng 265 ⟶ 266:
*[[Đường An Tây]]<ref>Cánh quân chính phía Bắc, theo đường thuộc Điện Biên ngày nay</ref>,
*[[Đường Thuận Mỗi]]<ref>Cánh quân yểm trợ cho cánh quân chính phía Bắc[[Thuận Châu]], theo đường thuộc tỉnh [[Sơn La]] ngày nay</ref>,
* Đường [[phủ Thanh Đô]]<ref>Cánh quân Bắc trung tâm, theo đường thuộc hướng các huyện [[Thường Xuân]], [[Lang Chánh]], [[Quan Sơn]] tỉnh [[Thanh Hóa]]</ref>
* Đường [[phủ Trà Lân]]<ref>Cánh quân trung tâm, theo đường thuộc Kỳ Sơn, Nghệ An ngày nay</ref>,
* Đường [[phủ Ngọc Ma]]<ref>Cánh quân Nam trung tâm, đường thuộc Con Cuông, Hương Sơn ngày nay</ref>.
Hàng 327 ⟶ 332:
''Mười anh em họ Trịnh (con thái uý [[Trịnh Khả]]) tất thảy đều vẻ vang phú quý''<br>
''Hai cha con họ Thân ([[Thân Nhân Trung]] và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn''<br>
''Cháu hiếu là Hồng Đức (tức [[Lê Thánh Tông]]) nay kế thừa nghiệp lớn''<br>
''Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm''
{{col-end}}
Hàng 340 ⟶ 345:
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm [[1497]], Lê Thánh Tông lâm bệnh [[phù thũng]]. Quý phi Nguyễn Hằng, con gái của [[công thần]] [[Nguyễn Đức Trung]], vốn bị thất sủng xa lánh lâu ngày, lấy cớ vào thăm bệnh rồi ngầm bôi thuốc vào tay, xoa lên những chỗ loét của ông.<ref name="dvsktt2">[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt18.html Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ Thực Lục, Quyển XIII: Thánh Tông Thuần Hoàng Đế (phần hạ)]</ref> Do đó, bệnh ông càng nặng thêm<ref name="dvsktt2"/> và băng hà ở [[điện Bảo Quang]].
Lê Thánh Tông ở ngôi 38 năm, hưởng thọ 56 tuổi và được an táng ở [[Chiêu Lăng]] (昭陵). Tương truyền, ngày hôm ấy, [[ấn]] thần và [[kiếm|gươm]] thần đều biến mất.<ref name="dvsktt2"/> Ông được tôn [[miếu hiệu]] là [[Thánh Tông]] (聖宗), miếu hiệu chỉ suy tôn những vị [[hoàng đế]] kiệt xuất nhất của triều đại. [[Thụy hiệu]] là '''Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế''' (崇天廣運高明光正至德
大功聖文神武達孝淳皇帝), đời sau gọi là '''Thánh Tông Thuần hoàng đế''' (聖宗淳皇帝), hay '''Lê Thuần Hoàng''' (黎淳皇), '''Lê Thuần Hoàng Đế''' (黎淳皇帝), '''Lê Thuần Đế''' (黎淳帝), '''Thuần Hoàng''' (淳皇), '''Thuần Đế''' (淳帝).
Lê Thánh Tông mất, Thái tử Lê Tranh lên thay, tức là [[hoàng đế]] [[Lê Hiến Tông]]. Triều đại nhà Hậu Lê tiếp tục sự thịnh trị.
==Nhận định==
Hàng 361 ⟶ 366:
== Gia quyến ==
* Cha: [[Lê Thái Tông]] Lê Nguyên Long.
* Mẹ: [[Ngô Thị Ngọc Dao|Quang Thục Văn hoàng hậu]] Ngô
* Hậu phi:
#[[Trường Lạc hoàng hậu]] Nguyễn thị (徽嘉淳皇后阮氏; 1441 - 1505), húy là Hằng (晅), nguyên sơ phong là [[Quý phi]], mẹ ruột của [[Lê Hiến Tông]]. Bà chưởng quản hậu cung, đứng đầu chúng phi tần của Thánh Tông.
|