Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Võ Thị Duyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Khang Chính vương (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của TuanminhBot
Thay cả nội dung bằng “Deleted.”
Dòng 1:
Deleted.
{{Infobox Royalty
| tên = Vũ Thị Duyên
| native name = 武氏緣
| tước vị = [[Hoàng thái hậu]] [[Việt Nam]]
| hình =
| cỡ hình =
| chức vị = [[Hậu phi]] [[nhà Nguyễn]]
| tại vị = Truy phong
| tiền nhiệm = [[Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu]]
| kế nhiệm = [[Phan Thị Điều|Từ Minh Huệ hoàng hậu]]
| chức vị 1= [[Hoàng thái hậu]] [[nhà Nguyễn]]
| tại vị 1= [[1883]] - [[1889]]
| tiền nhiệm 1= [[Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu|Từ Dụ Hoàng thái hậu]]
| kế nhiệm 1= [[Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu|Khôn Nguyên Hoàng thái hậu]]
| chức vị 2= [[Hoàng thái hậu|Thái hoàng thái hậu]] [[nhà Nguyễn]]
| tại vị 2= [[1889]] - [[1903]]
| tiền nhiệm 2= [[Từ Dụ|Từ Dụ thái hoàng thái hậu]]
| kế nhiệm 2= [[Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu|Khôn Nguyên Thái hoàng thái hậu]]
| chồng = [[Nguyễn Dực Tông]]<br/> Tự Đức hoàng đế
| tên đầy đủ = Vũ Xuân Duyên (武春緣)
| kiểu tên đầy đủ =
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Dục Đức|Cung Tông Huệ hoàng đế]] (con nuôi)
| thụy hiệu = <font color = "grey">Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh hoàng hậu</font><br/>儷天輔聖莊懿順孝勤恕溫慈賢明靜壽英皇后
| tước hiệu = Cung tần<br>Cần phi<br>Thuần phi<br>Trung phi<br>Hoàng quý phi<br>Hoàng hậu<br>Hoàng thái hậu<br>Thái hoàng thái hậu
| hoàng tộc = [[Nhà Nguyễn]]
| cha = [[Võ Xuân Cẩn|Vũ Xuân Cẩn]]
| mẹ = Trần phu nhân
| sinh = [[Tháng 5]], [[1828]]
| nơi sinh = huyện [[Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]]
| mất = [[Tháng 4]], [[1903]]
| nơi mất = [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], [[Tên gọi Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam]]
| nơi an táng = [[Lăng Tự Đức|Khiêm lăng]] (謙陵)
| tôn giáo =
}}
'''Vũ Thị Duyên''' ([[chữ Hán]]: 武氏緣, [[Tháng 5]], [[1828]] - [[Tháng 4]], [[1903]]), là vợ vua Tự Đức [[nhà Nguyễn]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
Hoàng hậu là người đoan trang, xuất thân từ gia đình danh giá có học vấn, hiểu lễ nghi, rất được [[Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu|Từ Dụ Hoàng thái hậu]] yêu mến. Bấy giờ Dực Tông hoàng đế không có con, bèn nhận 3 hoàng tử từ trong hoàng gia nhận làm con nuôi, Hoàng hậu được phó thác nuôi dạy Nguyễn Phúc Ưng Chân, tức [[Nguyễn Cung Tông|Cung Tông Huệ hoàng đế]].
 
== Thân thế ==
Bà có tên húy là '''Duyên''' (緣), xuất thân từ dòng họ '''Vũ Xuân Thị''' (武春氏) ở huyện [[Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]]. Cha bà là Đông Các đại học sĩ Lệ Quốc công [[Võ Xuân Cẩn|Vũ Xuân Cẩn]], mẹ là Lệ Quốc phu nhân Trần thị. Bà từ bé nhàn tĩnh đoan nhã, tính khí nhu mì đặc biệt, lại thông thạo sách vở, hiểu nội tấc, cũng như rành rẽ việc trong nhà.
 
Tiên tổ bà là [[Vũ Xuân Khoa]] (武春夸) được tặng làm ''Trung Thuận đại phu Hồng Lô tự khanh'', thụy ''Lượng Uyên'' (亮淵); chính thất được tặng ''Tĩnh Nhàn Cung nhân'' (靚嫻恭人). Cao tổ tên [[Vũ Xuân Yên]] (武春安) được tặng ''Trung Thuận đại phu Hàn Lâm viện Thị độc học sĩ Thế lộc tử'', thụy là ''Đoan Phác'' (端璞); chính thất Phạm thị được tặng ''Hòa Nhu Cung nhân'' (和柔恭人). Tằng tổ [[Vũ Xuân Uyên]] (武春宛), được tặng ''Gia Nghị đại phu Hàn Lâm viện Chưởng viện học sĩ'', tước ''Đức Hòa bá'' (德和伯), thụy ''Đôn Trực'' (敦直); chính thất Vũ Văn thị được tặng ''Nhu Giá Thục nhân'' (柔架淑人). Tổ phụ [[Vũ Xuân Phổ]] (武春溥) được tặng ''Tư thiện đại phu Lễ bộ Thượng thư'', tước ''Thuận Xương hầu'' (順昌侯), thụy ''Đôn Nhã'' (敦若); chính thất Vũ Văn thị làm ''Phương Huy Đoan nhân'' (芳撝端人).
 
Về sau, đích mẫu của Hoàng hậu là Bạch thị được truy tặng ''Trang Nhân Lệ Quốc phu nhân'' (莊仁厲國夫人), sinh mẫu Trần thị được phong ''Trinh Từ Lệ Quốc phu nhân'' (貞慈厲國夫人).
 
== Nhập cung ==
Năm [[Thiệu Trị]] thứ 3 ([[1843]]), bà được tuyển vào cung hầu Dực Tông Tực Đức, khi đó còn là Hoàng tử, tại ''Tiềm để'' <ref>Phủ riêng của [[Thái tử|Trữ quân]] trước khi lên ngôi</ref>. Vốn tính đoan trang, hiếu thuận, nên bà rất được mẹ chồng là [[Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu]] và chồng yêu quý<ref>''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (quyển 4), bản dịch: trang 84.</ref>.
 
Năm [[1848]], Hồng Nhậm lên kế vị, tức là vua [[Tự Đức]]. Vũ thị được tấn phong làm '''Cung tần''' (恭嬪). Sau đó, bà lần lượt được tấn phong làm '''Cẩn phi''' (謹妃, [[Canh Tuất]], [[1850]]), '''Thuần phi''' (順妃, [[Canh Thân]], [[1860]]), '''Trung phi''' (忠妃, [[Tân Dậu]], [[1861]]), '''Hoàng quý phi''' (皇貴妃, [[Nhâm Tuất]], [[1862]]), cho trông coi 6 viện.
 
[[Tháng 12]], năm [[1882]], bà bị giáng làm ''Trung phi'', không cho trông coi 6 viện nữa. Nguyên nhân là vì việc quản lý nhân sự của bà không được chu toàn. Sách ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' chép: ''"Lúc bấy giờ cơ vụ rất nhiều, (vậy mà) có khi quá trưa vua mới được ăn. Vua se mình đang uống thuốc, cung nhân tiến cơm hơi chậm (làm) trái ý vua"'' <ref name = "CB">''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (quyển 4), bản dịch: trang 86.</ref>.
 
Ngày [[16 tháng 6]], năm [[1883]], Tự Đức mất. Trước khi mất, hoàng đế di chiếu tôn bà làm [[Hoàng hậu]], để ''"trị việc trong nhà và dạy tự quân"''. Người kế vị là Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Chân, vị hoàng tử được bà dạy dỗ từ trước, tức [[Nguyễn Cung Tông]].
 
== Biến loạn kinh thành ==
Cung Tông Huệ hoàng đế tại vị được 3 ngày thì bị hai người là [[Tôn Thất Thuyết]] và [[Nguyễn Văn Tường]] [[phế bỏ]] <ref>''Quốc triều sử toát yếu'' (phần Chính biên, bản dịch: trang 498).</ref>, giam trong ngục [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], rồi mất sau đó không lâu<ref>Có một vài tác giả viết Cung Tông bị bỏ đói cho đến chết, như ở đây: [http://kienthuc.net.vn/channel/1984/201105/Vua-duc-duc-nam-chung-huyet-mo-voi-nguoi-hanh-khat-1798638/], [http://www.covathue.com/cac%20bai%20viet/Tunguyettamvuong.html]. Tuy nhiên, theo sử gia [[Phạm Văn Sơn]], thì đang khi hoàng đế hết sức đau đớn vì đói khát, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã sai người giết ông bằng thuốc độc vì sợ để lâu sẽ sinh biến (''Việt sử tân biên'', quyển 5, tập thượng, 1962, tr. 386).</ref>. Sau khi ép chết Cung Tông, cả 2 ông này lập người em của Dực Tông Anh hoàng đế là Lãng Quốc công ''Nguyễn Phúc Hồng Dật'' lên kế vị, tức [[Hiệp Hòa|Văn Lãng Quận vương]], con trai thứ 29 của [[Thiệu Trị]].
 
[[Mùa thu]], năm [[1883]], theo di chiếu, đình thần định tôn lập bà làm Hoàng hậu. Nhưng chưa kịp tổ chức lễ, thì bà đã đến [[Cung Diên Thọ|cung Gia Thọ]] lạy từ thái hậu [[Từ Dụ]] để xin ra chầu thờ ở [[Lăng Tự Đức]], vì xét thấy mình đã không làm tròn việc dạy dỗ tự quân (tức Cung Tông). Khi ấy, Hiệp Hòa Đế ngỏ ý mời bà đến [[điện Cao Minh]] để bái yết và dâng cơm, nhưng bà không nhận mà đi thẳng ra [[Ôn Khiêm đường]] ở Khiêm Lăng. Sau khi hỏi ý kiến các tôn nhân và đình thần, Hoàng đế tôn bà là '''Khiêm Hoàng hậu''' (謙皇后).
 
[[Tháng 10]], năm [[1883]], Hiệp Hòa Đế cũng bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sai người giết chết <ref>''Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, bản dịch: trang 501.</ref>, rồi tôn [[Kiến Phúc|Giản Tông Nghị hoàng đế]] lên thay. [[Tháng 6]], năm [[1884]], Giản Tông băng hà đột ngột. Lập tức, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường tôn [[Hàm Nghi]] lên thay. [[Tháng 3]], năm [[1885]], Hàm Nghi tấn phong Nghi Thiên Thái hoàng thái hậu, nhân đó muốn xin tôn phong huy hiệu cho Khiêm Hoàng hậu như đúng lễ nhưng bà không nhận.
 
Lúc xảy ra [[Trận Kinh thành Huế 1885]], Hàm Nghi phải xuất bôn ra [[Quảng Trị]], bà cùng chạy theo Nghi Thiên Thái hoàng thái hậu ra đấy. Cùng chạy với bà còn có Học phi [[Nguyễn Thị Hương]], mẹ nuôi của Giản Tông. Sử [[nhà Nguyễn]] thường gọi cả ba người là '''Tam cung''' (三宮). Khi nghị hòa xong, Tam cung về ngụ ở Khiêm Lăng.
 
Đến khi [[Đồng Khánh]] kế vị, quân đội Pháp trao trả lại [[kinh thành Huế]] cho triều đình nhà Nguyễn thì Tam cung quay trở về Kinh thành. Khiêm hoàng hậu về lại cung Trường Ninh, về sau đổi tên là [[cung Trường Sanh]] trong [[Hoàng thành Huế]].
 
== Cuối đời ==
Ngày [[27 tháng 4]], năm [[1887]], tức năm Đồng Khánh thứ 2, Cảnh Tông cùng quần thần dâng sách vàng, ấn vàng tôn bà làm '''Trang Ý Hoàng thái hậu''' (莊懿皇太后). Đến [[tháng 10]], năm [[1889]] ([[Thành Thái]] năm thứ nhất), bà được tôn làm '''Trang Ý Thuận Hiếu Thái hoàng thái hậu''' (莊懿順孝太皇太后).
 
[[Tháng 4]], năm [[1903]], Thái hoàng thái hậu qua đời, thọ 75 tuổi. Bà được dâng [[thụy hiệu]] là '''Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh hoàng hậu''' (儷天輔聖莊懿順孝勤恕溫慈賢明靜壽英皇后), thường gọi tắt là '''Lệ Thiên Anh Hoàng hậu''' (儷天英皇后) và được an táng trong ''Khiêm Thọ lăng'' (謙壽陵), nằm bên trái Khiêm lăng.
 
==Sách tham khảo==
*[[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán triều Nguyễn]], ''[[Đại Nam thực lục|Đại Nam chính biên liệt truyện]]'' (Nhị tập). Nhà xuất bản Văn học, [[Hà Nội]], 2004.
*[[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán triều Nguyễn]], ''[[Quốc triều sử toát yếu]]'' (phần Chính biên). Nhà xuất bản Văn học, [[Hà Nội]], 2002.
*Lưỡng Kim Thành, ''Chuyện các bà hoàng bà chúa triều Nguyễn''. Nhà xuất bản [[Thuận Hóa]] (tái bản lần thứ 2, 2012).
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
[[Thể loại:Sinh 1828]]
[[Thể loại:Mất 1903]]
[[Thể loại:Hoàng thái hậu Việt Nam]]