Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Thị Đang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Khang Chính vương (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Trungda
Thay cả nội dung bằng “Deleted.”
Dòng 1:
Deleted.
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Hoàng phi Thuận Thiên
| native name =
| tước vị =
| hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị 1 = [[Hoàng thái hậu]] [[nhà Nguyễn]]
| tại vị 1= [[1820]] - [[1840]]
| tiền nhiệm 1 =
| kế nhiệm 1 =
| chức vị 2 = [[Thái hoàng thái hậu]] [[nhà Nguyễn]]
| tại vị 2 = [[1840]] - [[1846]]
| tiền nhiệm 2 = '''Không có'''<br/><small>[[Thái hoàng thái hậu]] đầu tiên của triều đại</small>
| kế nhiệm 2 = [[Từ Dụ|Từ Dụ Thái hoàng thái hậu]]
| chồng = [[Nguyễn Thế Tổ]]<br/> Gia Long Hoàng đế
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Nguyễn Phúc Đảm]]<br>Kiến An Vương [[Nguyễn Phúc Đài]]<br>Thiệu Hóa Quận vương [[Nguyễn Phúc Chẩn]]
| tên đầy đủ = Trần Thị Đang (陳氏璫)
| tước hiệu = Tả cung tần<br/>Nhị phi<br/>Hoàng thái hậu<br/>Thái hoàng thái hậu
| thụy hiệu = <font color = "grey">Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dụ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng hậu</font><br/>順天興聖光裕化基仁宣慈慶德澤元功高皇后
| hoàng tộc = [[nhà Nguyễn]]
| cha = [[Trần Hưng Đạt]]
| mẹ = Phu nhân Lê Thị Cầm
| sinh = [[4 tháng 1]], [[1769]]<br>([[27 tháng 11]] năm [[Mậu Tý]])
| nơi sinh = Làng Văn Xá, [[Phú Ốc]], huyện [[Hương Trà]], phủ [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]]
| mất = {{ngày mất và tuổi|1846|11|6|1769|1|4}}
| nơi mất = [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], [[Việt Nam]]
| nơi an táng = [[Lăng Gia Long|Thiên Thọ Hữu Lăng]] (天授右陵)
}}
'''Thuận Thiên hoàng phi''' ([[chữ Hán]]:, [[4 tháng 1]], [[1769]] - [[6 tháng 11]], [[1846]]), hay còn gọi theo tên truy tôn là '''Thánh Tổ mẫu''' (聖祖母), '''Thuận Thiên Cao Hoàng hậu''' (順天高皇后 hoặc '''Nhân Tuyên hoàng thái hậu''' (仁宣皇太后), là một [[phi tần]] của vua Gia Long [[nhà Nguyễn]] và là mẹ đẻ vua Minh Mạng Hoàng đế.
 
Bà cùng [[Thừa Thiên Cao Hoàng hậu]] là hai người vợ gắn bó với Thế Tổ Gia Long thuở hàn vi, lập nghiệp. Bà hưởng phúc đến đời cháu là Hoàng đế [[Nguyễn Hiến Tổ]] Thiệu Trị Hoàng đế, ở ngôi vị cao quý nhất cung đình nhà Nguyễn, từ khi Thừa Thiên Cao Hoàng hậu mất vào năm [[1814]] đến khi bà qua đời vào năm [[1846]], tổng cộng 32 năm.
 
== Thân thế ==
Bà tên húy là '''Đang''' (璫), lại húy là '''Kính''' (敬) con gái thứ của Thọ Quốc công [[Trần Hưng Đạt]] (陳興達) ([[1746]] - [[1810]]) và Thọ Quốc phu nhân Lê thị.<ref name="Thi Long 1998 pp. 85">Thi Long (1998). Nhà Nguyễn chín Chúa mười ba Vua. Da Nang: Đà Nẵng Publishing House. pp. 85.</ref>. Gia tộc bà vốn gốc Thanh Hóa, tiên tổ là [[Trần Phúc Tư]] buổi đầu năm [[1558]] theo chúa Tiên [[Nguyễn Hoàng]] vào [[Thuận Hóa]] lập nghiệp, định cư ở huyện [[Hương Trà]], phủ [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]].<ref name="ĐNLT">Đại Nam Liệt Truyện, tập 2, Chính biên - Sơ tập. Nhà xuất bản Thuận Hóa, sách đã dẫn.</ref>
 
Cụ nội bà là [[Trần Mậu Tài]] (陳懋財), được truy phong ''Thị trung trực Học sĩ'', tước ''Văn Xá bá'' (文厙伯); Tổ phụ [[Trần Mậu Quế]] (陳懋桂) được phong ''Lại bộ Thượng thư'', tước ''Gia Bình Hầu'' (家平侯).
 
== Gia Long phi thiếp ==
Khi [[Trịnh-Nguyễn phân tranh, 1774-1775|quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân]] (đầu năm [[1775]]), [[Nguyễn Thị Hoàn]] lánh nạn ở làng An Dụ, [[Cửa Tùng]], bà được tuyển vào hầu cận vì là con nhà danh giá. Năm [[1778]], Nguyễn Ánh sai người rước mẹ vào [[Gia Định]], qua năm Kỷ Hợi [[1779]], bà cùng các chị em của Nguyễn Ánh cũng vào theo. Bà khi 14 tuổi ([[1781]]) được tấn phong là '''Tả cung tần''' (左宮嬪), xưng là '''Nhị phi''' (二妃).
 
Khi quân [[Tây Sơn]] còn mạnh thế, bà theo Nguyễn Ánh phiêu bạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn: ''"Lúc này vận nước còn khó khăn, chưa dược an định, nếu sinh con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo chỉ bận lòng chúa thượng. Nếu số mệnh có con thì xin thái bình rồi mới sinh, mong trời ban được như thế"''<ref name="ĐNLT"/>.
 
Năm [[1788]], sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, một đêm bà nằm mộng thấy một vị thần dân lên một cái tỉ và hai cái ấn; cái tỉ màu sắc đỏ bóng nhẫy tươi sáng như mặt trời; một cái ấn thì sắc tía, cái kia thì sắc rất nhạt, bà nhận lấy tất cả<ref name="ĐNLT"/>.
Năm [[1791]], bà sinh ra tứ hoàng tử Đảm, tức [[Minh Mạng]], ở thôn [[Hoạt Lộc]] (thuộc Gia Định)<ref name="Thi Long 1998 pp. 85"/><ref name="ĐNLT"/>, sau đó là Kiến An Vương Đài, Hoàng tử Diệu (tảo thương) và Thiệu Hóa Quận vương Chẩn. Khi Đảm được lên 3 tuổi, Nguyễn Ánh đưa vào làm con của vợ cả là [[Tống Thị Lan|Nguyên phi Tống thị]], Tống Nguyên phi yêu thương Hoàng tử như con mình.
 
Năm [[1806]], Gia Long sách lập Tống Phúc Vương hậu làm [[Hoàng hậu]], bà với thân phận Phi tần cao nhất, giúp Hoàng hậu chuyện trong cung. Bấy giờ, Hoàng hậu đã mất hết con trong biến loạn, năm [[1801]] Thái tử [[Nguyễn Phúc Cảnh]] qua đời khi tuổi còn trẻ, Hoàng hậu đau lòng không thôi, Thế Tổ Gia Long vì thương Hoàng hậu nên buộc tứ Hoàng tử Đảm luôn hầu bên trong cung.
 
== Mẫu nghi thiên hạ ==
=== Thời Minh Mạng ===
Năm Minh Mạng thứ nhất ([[1820]]), bắt đầu xây cung Từ Thọ, phong thưởng cho người họ ngoại. Các quan cùng vua xin dâng tôn hiệu bà lên làm Hoàng thái hậu, bà cảm thấy Thế Tổ Gia Long Hoàng đế chưa chôn cất được bao lâu, Hoàng đế đương kim lại vì chuyện mà lo buồn, sợ hãi, ấy vì thế mà khước từ đi<ref name="ĐNLT"/>.
 
Năm [[1821]], [[Cung Diên Thọ|Từ Thọ cung]] xây xong, Thánh Tổ Minh Mạng cùng bá quan dâng biểu tôn bà làm [[Hoàng thái hậu]], vào ở trong cung Từ Thọ. Bà là người tính cần kiệm, từng đặt nhà thêu nuôi tằm trong cung, hằng ngày đều đến trông nom để làm vui.
 
Năm [[1832]], Minh Mạng truy tôn cha bà làm Đông các Học sĩ, Thái phó, phong là '''Hoa Quốc công''' (花国公), Lê Phu nhân mẹ bà là '''Nhất phẩm Hoa Quốc phu nhân''' (一品花国夫人). Miễn thuế lệ tô ruộng cho làng họ ngoại 5 năm, cho thêm tiền để cung việc tế tự 3 từ đường họ Trần là 1000 quan.
 
Khi Minh Mạng đến hầu cơm, bà thường đứng dậy đi lại để tỏ ra khỏe mạnh, lại dạy rằng: ''"Ta biết Hoàng đế chăm lo suốt ngày, há nỡ lấy cái tuổi gần 70 mà lại làm lụy cho con, cho nên hàng ngày cố gắng ăn thêm, tự thấy tâm thần thảnh thơi, Hoàng đế nên chớ phải lo"''. Hoàng đế cả mừng, khóc lạy tạ<ref name="ĐNLT"/>.
 
Năm [[1837]], mùa đông, tháng 11, ngày 16, Hoàng đế cùng bá quan tôn hiệu bà là '''Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng Thái Hậu''' (仁宣慈慶皇太后). Sách văn rằng:
{{cquote|''Kính nghĩ Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ, bao rộng để hợp phúc lành, tĩnh nghiêm để chỉnh khuôn phép. Tám cõi gió hòa ấm áp, bảy tuần tuổi thọ khang cường, kính gặp điển lễ vui mừng, thêm thỏa tấm lòng hoan hỷ. Rất mực thay khôn nguyên, rộng đầy khó hình dung về đức tốt. Xét theo các cổ điển, tôn xưng để tỏ rõ về tiếng thơm. Cẩn dâng sách vàng, ấn vàng, kính dâng hiệu Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng thái hậu''|||Sách văn tấn tôn - Đại Nam liệt truyện}}
 
Năm [[1840]], Minh Mạng mất, tôn chiếu Hoàng tử trưởng Trường Khánh Công Miên Tông lên nối ngôi, tức [[Thiệu Trị]]. Quan đại thần [[Trương Đăng Quế]] tâu lên, bà dụ rằng: "'' Cha truyền con nối là đạo thường xưa, bọn ngươi phải dốc toàn tâm mà giúp đỡ tân đế"''.
 
=== Thời Thiệu Trị ===
Năm [[1841]], Hiến Tổ Thiệu Trị dâng tôn hiệu cho bà là '''Nhân Tuyên Từ Khánh Thượng Thọ Thái Hoàng Thái Hậu''' (仁宣慈慶福壽康寧太皇太后).
 
Bà thường thong dong bảo Thiệu Trị về việc tin dùng người cũ, tuân theo phép nước, khéo nối chí, khéo léo theo việc mới là hiếu, đáng làm trưởng, đáng làm Đế mới là người trên. Lại cho bài luận về ''vua tôi'', dạy bảo rất cặn kẽ cho Hiến Tổ nghe. Mùa hạ cùng năm, truy phong cha bà lên làm Cần chính điện đại học sĩ Thái sư, tước hiệu là '''Thọ Quốc công''' (壽国公), Lê phu nhân là '''Thọ Quốc nhất phẩm phu nhân''' (壽国一品夫人).
 
Khi Thiệu Trị đến hầu cơm, bà dụ rằng: ''" Hoàng đế hầu cơm, đi bằng đầu gối, dâng đũa chính tay điều hòa nước canh, vui vẻ dâng chén, nhất nhất đều tuân theo chí của người trước, tình lễ thực là đầy đủ cả"''. Hoàng đế giơ tay lên trán mà lạy tạ.
 
Bà thường dạo chơi vườn Thường Mậu, lên lầu Ký Ân, xa có thể trông thấy ruộng tịch điền. Rồi bà quay qua Thiệu Trị mà nói câu đại ý: ''Đức Thánh Tổ Nhân hoàng đế (tức [[Minh Mạng]]) quả là người cha yêu con. Khi xây dựng lầu này, cốt là sợ cái sự xa hoa mà làm hư mất Hoàng đế (chỉ [[Thiệu Trị]]), không biết lo cho dân, thương nhà nông. Xây dựng lầu này trước cung của Hoàng đế, cốt là nhắc nhở cái ruộng tịch điền còn đó, biết cái khó nhọc của muôn dân; đừng có mà bắt chước xây vườn tược, cung điện, thực không phải là chí của người trước vậy.''
 
Năm [[1843]], nhân trong cung có việc tôt là ''Ngũ Đại Đồng đường'', việc hiếm thấy xưa nay, nên Hiến Tổ Thiệu Trị dân kim sách tấn tôn là '''Thánh Tổ Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thị Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu''' (聖祖母仁宣慈慶福壽康寧太皇太后).
 
Năm [[1844]], Thái hoàng thái hậu đến chơi vườn Cơ Hạ. Hiến Tổ Thiệu Trị quỳ đón ở cửa vườn, đi trước dẫn đường, theo sau là võng chở bà đi thưởng ngoạn. Khi coi ao Minh Giám, thấy cá làm sóng gợn, câu được nhiều cá tốt, bà lại dụ rằng: '' Cá ở ao không lo chài lưới, đầm ruộng cũng chẳng hơn thế. Xưa kia [[Lưu Bị|Chiêu Liệt]] [[thục Hán|nhà Thục Hán]] đối với [[Gia Cát Lượng|Gia Cát Vũ hầu]] lấy cá nước tương đắc với nhau mà làm câu ví, thực là câu nói hay. Vả đạo nhân quân làm chính trị, cốt nên thân người hiền xa kẻ gian, răn xa xỉ, chuộng tiết kiệm, Hoàng đế nhớ kỹ mà làm''.
 
Tháng 8 năm [[Bính Ngọ]] ([[1846]]), Thái hoàng thái hậu lâm bệnh nặng, qua ngày [[18 tháng 9]] âm lịch thì qua đời, hưởng thọ 79 tuổi, quan tài để ở Từ Thọ Cung. Tháng 11 ngày 20 ([[6 tháng 1]] năm [[1847]]), Hiến Tổ Thiệu Trị dâng tôn hiệu là '''Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dụ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng hậu''' (順天興聖光裕化基仁宣慈慶德澤元功高皇后), gọi tắt là '''Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu''' (順天高皇后).
 
Tháng 12, ngày Canh Thân ([[25 tháng 1]], 1847), táng ở bên hữu [[Lăng Gia Long|lăng Thiên Thọ]], trên núi [[Thuận Sơn (Thừa Thiên - Huế)|Thuận Sơn]], huyện [[Hương Trà]]). Tháng 11 năm Mậu Thân ([[1848]]), thần chủ của bà được rước về thờ ở Chánh án [[Thế Tổ Miếu (hoàng thành Huế)|Thế Miếu]], ở bên trái thần chủ của [[Gia Long|Thế Tổ]].
 
== Hậu duệ ==
Thuận Thiên Cao hoàng hậu sinh được 4 người con trai:
# Nguyễn Phúc Đảm [阮福膽], tức [[Minh Mạng]].
# [[Nguyễn Phúc Đài]] (阮福旲; ([[5 tháng 10]], [[1795]] - [[14 tháng 11]], [[1849]]) tên khác là Nguyễn Phúc Duệ (阮福曳), tôn hiệu là ''Kiến An Cung Thuận Vương'' (建安恭慎王).
# Hoàng tử tên Hiệu, mất sớm.
# [[Nguyễn Phúc Chẩn]] (阮福昣; [[30 tháng 4]], [[1803]] - [[26 tháng 10]], [[1824]]), tên khác là Nguyễn Phúc Khuê (阮福晆) tôn hiệu là ''Thiệu Hóa Cung Lương Quận Vương'' (紹化恭良郡王).
 
==Tham khảo==
* [[Đại Nam liệt truyện]], tập 2, Chính biên-Sơ tập
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
{{s-start}}
{{s-hou|[[Nhà Nguyễn]]||||}}
{{s-reg}}
{{s-bef|before=[[Tống Thị Lan|Thừa Thiên Cao Hoàng hậu]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách Hoàng hậu nhà Nguyễn|Hoàng hậu Việt Nam]]|years= Truy phong}}
{{s-aft|after=[[Hồ Thị Hoa|Tá Thiên Nhân Hoàng hậu]]}}
{{end}}
 
[[Thể loại:Sinh 1769]]
[[Thể loại:Mất 1846]]
[[Thể loại:Hoàng hậu nhà Nguyễn]]
[[Thể loại:Hoàng hậu Việt Nam]]
[[Thể loại:Hoàng thái hậu Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Huế]]