Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ang Mey”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 38:
}}
 
'''Ang Mey''' (1815 – 1874) là một [[nữ hoàng|nữ vương]] tại ngôi ở [[Campuchia|Cao Miên]] hơn mười năm từ 1835 đến 1847. Sử sách người Việt đương thời gọi nhân vật này là '''Quận chúa Ngọc Vân''' (玉雲), sau còn được gọi là '''Quận chúa Mỹ Lâm''' (khi nước Chân Lạp bị giải tán thành Trấn Tây Thành). Bà là con gái thứ hai của vua [[Ang Chan II]] (Nặc Chăn) của [[Campuchia|Chân Lạp]].
 
== Tiểu sử ==
Sau khi phụ vương Ang Chan II mất năm 1834 mà không có con trai nối dõi, Ang Mey được triều đình [[nhà Nguyễn]] đưa lên ngôi, hiệu là Chân Lạp quận chúa, sau khi phụ vương Ang Chan II mất năm 1834 mà không có con trai nối dõi.<ref>[http://www.quehuong.org.vn/vi/nr050307131435/nr050106094245/nr050113095211/ns060220135442 Việt Nam sử lược - Thánh Tổ nhà Nguyễn]</ref>
 
SauTrước đó, sau [[Chiến tranh Việt–Xiêm (1833-1834)|Chiếnchiến tranh Việt – Xiêm]] (1833-1834), nhà Nguyễn dự định cho công chúa cả là Ang Pen (Ngọc Biện) lên ngôi nữ vương Cao Miên nhưng do Ang Pen là người thân Xiêm và không đồng ý kết hôn với hoàng tử nhà Nguyễn nên bị loại trừ.
 
Năm 1835, [[Trương Minh Giảng]] nhân danh quan Bảo hộ Cao Miên đề nghị đưa Ngọc Vân (Ang Mey) lên làm Quận chúa CaoChân MiênLạp trong khi củng cố quyền lực của [[nhà Nguyễn]] trên đất Cao Miên. Sau đó, nhà Nguyễn cho đổi nước Cao Miên thành [[Trấn Tây Thành]]. Khu vực nhà Nguyễn kiểm soát là vùng Đông Nam [[Tonlé Sap|Biển Hồ]], [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] và kinh đô [[Oudong (Campuchia)|U Đông]] gọi chung là Trấn Tây.
 
Do nước Cao Miên không còn nữa, đổi phong Quận chúa Chân Lạp là Ngọc Vân làm Mỹ Lâm quận chúa; các huyện quân là Ngọc Biện làm Lư An huyện quân; Ngọc Thu làm Thâu Trung huyện quân; Ngọc Nguyên làm Tập Ninh huyện quân.
 
Trong khi đó [[Xiêm La]] mở cuộc xâm lăng Cao Miên để tranh giành ảnh hưởng. Cuộc chiến dai dẳng kéo dài từ năm 1834 đến 1845 bất phân thắng bại. Người Xiêm chiếm ưu thế ở vùng Tây Bắc còn người Việt cai trị gián tiếp qua triều đình Ang Mey vùng Đông Nam.
Dòng 55:
Năm 1840, Ngọc Biện và gia nhân bị kết tội chết do liên lạc với phe thân Xiêm. Các quan người Chân Lạp là Trà Long, Nhâm Vu và La Kiên đều bị vạ lây. Ngọc Vân, Ngọc Thu và Ngọc Nguyên thì bị giải về Gia Định quản thúc. Người Chân Lạp vì lẽ đó mà đã uất ức lại thêm phần chán ghét. Tới sang đầu năm 1841, Ngọc Vân mới được trở về Nam Vang.
 
Năm 1841, vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị lên thay. Vì thấy việc binh bị tốn kém, vua [[Thiệu Trị|Thiệu Tr]]ị sai bỏ Trấn Tây thành, rút binh về An Giang. Ang Mey và các em gái theo quan quân Đại Nam về ở thôn Châu Phú, thành Châu Đốc, tỉnh An Giang<ref>Đại Nam Thực Lục ghi:
 
''Cho bọn quận chúa là Ngọc Vân đến ở tại thôn Chu Phú, phái người coi giữ.''
Dòng 65:
 
Năm 1845, ''cho dời chỗ ở của quận chúa Ngọc Vân và mẹ tên Giun đến thành Nam Vang. (Ngọc Vân và mẹ tên Giun và người nhà, nguyên trước ở thành An Giang)''<ref>Đại Nam Thực Lục</ref>.
[[Tập tin:BasseCochinchine-Cambodia(1841-1889).jpg|thumb|675x675px335x335px|Bản đồ Nam Kỳ và một phần nước Cao Miên năm 1841-1889.]]
Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). VUa Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang. Triều đình Cao Miên được coi là độc lập nhưng phải chịu triều cống cả hai nước Việt lẫn Xiêm.