Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Atago (lớp tàu khu trục)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 186:
=== Ngư lôi hạng nhẹ Mk-46 ===
Tàu còn có sự hỗ trợ của 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm Type 68 sử dụng ngư lôi Mk-46. Hệ thống phóng được thiết kế có khả năng xoay, điều hướng và và bắn từ xa (riêng việc bắn có thể thực hiện tại chỗ bằng tay) nhắm tới mục tiêu cần diệt. Các ống phóng được làm từ vật liệu sợi thủy tinh hoặc kim loại, bên trong ống được bọc một lớp sợi thủy tinh để có thể bảo quản ngư lôi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Nhật Bản. Ngoài ra, tàu cũng có thể sử dụng các loại ngư lôi khác như Mk-50, Mk-54 hay loại Type 73 (tương đương Mk-46) do Nhật tự phát triển.
Chương trình chế tạo ngư lôi Mk-46 được bắt đầu vào năm 1960 nhằm thay thế cho ngư lôi Mk-44 đã lạc hậu. Ngư lôi Mk-46 chính thức được đưa vào trang bị năm 1967. Ngư lôi Mk-46 có vỏ làm bằng hợp kim nhôm, chiều dài 2,591m, đường kính 0,324m, trọng lượng 230,4
Ngư lôi Mk-46
=== Tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90 ===
Dòng 208:
=== Pháo hạm 127 mm Mk-45 mod 4 ===
Pháo chính của tàu là pháo hạm 127 mm Mk-45 mod 4 có chiều dài nòng gấp 62 lần đường kính do
Mk-45 mod 4 được trang bị bộ nạp đạn tự động sức chứa 20 viên, có thể bắn hoàn toàn tự động và thời gian nạp đạn giữa mỗi lần bắn chưa tới 1 phút. Để vận hành liên tục Mk-45 mod 4 đòi hỏi cần có 6 binh sĩ trên boong tàu (chỉ huy pháo, người điều khiển và 4 người tiếp đạn) để có thể tác chiến liên tục. Khoang chứa đạn của pháo có thể mang theo tới 680 đạn pháo cho phép tác chiến trong thời gian dài. Loại đạn dùng cho Mk-45 mod 4 có thể là loại xuyên giáp, gây cháy, văng mảnh trực tiếp và thậm chí có thể được dẫn đường để phá hủy các tên lửa chống hạm. Tháp pháo được thiết kế tăng cường các góc cạnh để làm tăng khả năng tàng hình cho tàu.
|