Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Boeing B-17 Flying Fortress”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 3, replaced: Quốc Xã → Quốc xã (4), Châu Âu → châu Âu (2) using AWB |
n clean up, replaced: → (5), [[Thể loại:Máy bay ném bom Hoa Kỳ 1930–1939 → [[Thể loại:Máy bay quân sự Hoa Kỳ thập niên 1930 using AWB |
||
Dòng 199:
| B-17C || 38 || [[21 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]<ref name="Baugher B-17C">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_5.html |title= Boeing B-17C Fortress |accessdate=15 tháng 1 năm 2007|work= Encyclopedia of American Aircraft}}</ref>
|-bgcolor="#f5faff"
| B-17D || 42 || [[3 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17D">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_7.html |title= Boeing B-17D Fortress
|-
| B-17E || 512 || [[5 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17E">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_8.html |title= Boeing B-17E Fortress |accessdate=15 tháng 1 năm 2007 |work= Encyclopedia of American Aircraft}}</ref>
Dòng 222:
|}
Chiếc B-17 trải qua nhiều biến đổi trong mỗi giai đoạn thiết kế và các phiên bản. Trong số 13 chiếc '''YB-17''' được đặt hàng để thử nghiệm hoạt động, 12 chiếc được Liên đội Ném bom 2 tại sân bay Langley, Virginia sử dụng để phát triển kỹ thuật ném bom hạng nặng, trong khi chiếc thứ 13 được giao cho ''Bộ phận Hậu cần'' tại sân bay Wright Field, Ohio dùng để bay thử nghiệm.<ref name="Y1B-17">{{chú thích web |url= http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2500 |title= Boeing y1b-17
[[Tập tin:Boeing XB-17 blister turret.jpg|nhỏ|trái|Tháp súng dạng ló ra trên chiếc Kiểu 299, không được áp dụng vào sản xuất]]
Dòng 230:
[[Tập tin:B-17G Nose in Detail.jpg|upright|nhỏ|trái|Chi tiết mũi máy bay phiên bản B-17G]]
Cho đến khi phiên bản cuối cùng '''B-17G''' xuất hiện, số lượng súng máy đã tăng từ bảy lên mười ba khẩu, thiết kế các vị trí súng được cố định, và các điều chỉnh khác cũng hoàn tất. Chiếc B-17G là phiên bản chót của B-17, bao gồm mọi thay đổi đã thực hiện trên phiên bản trước đó, chiếc '''B-17F''', và có tổng cộng 8.680 chiếc được chế tạo, chiếc cuối cùng vào ngày [[9 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="B-17.de 3">{{chú thích web | url = http://www.b17flyingfortress.de/english/index.php?id=htm/general/chronicle.htm | title = Chronicle
[[Tập tin:Boeing SB-17G.jpg|nhỏ|phải|Chiếc SB-17G Flying Fortress, số hiệu ''44-83722'', còn được gọi là B-17H, dùng làm máy bay tìm kiếm và giải cứu. Khung máy bay này sau đó được sử dụng như là một mục tiêu trong ba chiến dịch thử nghiệm nguyên tử ''Snapper'' tại Yucca Flats trong thập niên 1950 và bị hư hại nặng. Phần còn lại được sử dụng để phục hồi khung máy bay số hiệu ''44-85813'' tại Urbana, Ohio.]]
Hai phiên bản của chiếc B-17 đã bay dưới những tên khác, đó là chiếc [[Boeing XB-38 Flying Fortress|XB-38]] và chiếc [[YB-40 Flying Fortress|YB-40]]. Chiếc '''XB-38''' là một nền tảng dùng trong thử nghiệm kiểu động cơ [[Allison V-1710]] làm mát bằng nước, dự phòng trường hợp kiểu động cơ Wright được sử dụng bình thường trên chiếc B-17 không sẵn có. Chiếc '''YB-40''' là một phiên bản cải tiến dựa trên chiếc B-17 tiêu chuẩn được vũ trang mạnh, được sử dụng trước khi kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa rất hiệu quả [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] được đưa ra hoạt động hộ tống việc ném bom. Vũ khí bổ sung bao gồm một tháp súng vận hành bằng điện tại phòng điện báo, tháp súng cằm (được tiếp tục trở thành trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản B-17G) và hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) bên hông. Tổng số đạn được mang theo là trên 11.000 viên, làm cho chiếc YB-40 nặng hơn trên 4.500 kg (10.000 lb) so với một chiếc B-17F chất đầy tải. Không may là, chiếc YB-40 với rất nhiều trang bị nặng gặp phải vấn đề không theo kịp tốc độ những chiếc máy bay ném bom rỗng, và do đó, cùng với sự ra đời của chiếc P-51 Mustang, kế hoạch bị dừng và cuối cùng kết thúc vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]].<ref name="Baugher XB-38">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_9.html |title= Vega XB-38
Vào cuối Thế Chiến II, có ít nhất 25 máy bay B-17 được dùng làm máy bay giả, trang bị hệ thống điều khiển bằng radio và chất đầy 9.000 kg (20.000 lb) chất nổ [[Torpex]] và [[Trinitrotoluen|TNT]], được đặt tên là "tên lửa '''BQ-7''' [[Chiến dịch Aphrodite|Aphrodite]]", và được sử dụng để chống lại các hầm ngầm chứa tên lửa [[V-1]] và các [[công sự]] đề kháng bom. [[Chiến dịch Castor]] được bắt đầu vào ngày [[23 tháng 6]] năm [[hàng không năm 1944|1944]], sử dụng Liên đội Ném bom 388 tại [[Knettishall]]. Một sân bay tại vùng dân cư thưa thớt của [[Norfolk]] được chọn làm [[Căn cứ Không quân Hoàng gia Fersfield]] gần [[Winfarthing]]. Máy bay giả sử dụng thường là một chiếc B-17 Fortress, và do một máy bay [[B-34 Ventura]] điều khiển để đâm vào mục tiêu.<ref name="Ramsey">Ramsey, Winston G. ''The V-Weapons''. London, United Kingdom: ''After The Battle'', Số 6, 1974, trang 21.</ref> Bốn chiếc "tên lửa" kiểu này đã được gửi đến [[Mimoyecques]], [[Siracourt]], [[Watten, Nord|Watten]] và [[Wizernes]] vào ngày [[4 tháng 8]], và chỉ gây thiệt hại nhẹ. Vào ngày [[6 tháng 8]], có thêm hai chiếc B-17 đâm xuống Watten với chút ít thành công. Dự án này đột ngột bị hủy bỏ sau khi có một vụ nổ máy bay trên không trung không giải thích được tại khu vực cửa sông [[Blyth]], liên quan đến một chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|Liberator]] trong thành phần lực lượng của [[Hải quân Hoa Kỳ]] tham gia "Kế hoạch Anvil", đang trên đường đi đến [[Heligoland]] và do Trung úy phi công [[Joseph P. Kennedy Jr.]], anh trai của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] tương lai [[John F. Kennedy]], điều khiển. Mảnh vỡ của vụ nổ trải rộng một khu vực có đường kính lên đến 8 km (5 dặm), và các quan chức Anh lo lắng rằng những tai nạn tương tự có thể lại xảy ra.<ref name="Ramsey"/> Vì hầu như rất ít (hoặc không có) chiếc BQ-7 nào trúng đích, những chiếc trong kế hoạch Aphrodite bị tháo bỏ vào năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="Baugher BQ-7">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_14.html |title= History of the BQ-7
Trong và sau Thế Chiến II, một số loại vũ khí được thử nghiệm và sử dụng trên chiếc B-17, trong số đó có bom lượn "razon" (điều khiển bằng radio), và [[Ford]]-[[Republic]] [[JB-2 Loon]] (còn có tên lóng là Thunderbugs), một kiểu mẫu sao chép kỹ thuật của Mỹ từ kiểu bom bay Đức [[V-1]]. Một đoạn phim về chiếc V-1/JB-2 đang bay trên không được sử dụng rộng rãi trong nhiều phim tài liệu về [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] thực ra được quay từ một máy bay Không lực Mỹ [[Douglas A-26 Invader|A-26]] tại [[Căn cứ Không quân Eglin]], và được phóng từ đảo Santa Rosa, Florida. Vào cuối những năm [[Thập niên 1950|1950]], những chiếc B-17 cuối cùng hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ là những máy bay mục tiêu giả '''QB-17''' và máy bay điều khiển mục tiêu giả '''DB-17P''', cùng một vài chiếc '''VB-17''' tân trang được sử dụng linh tinh tại các phi đội.
Dòng 526:
[[Thể loại:Máy bay Boeing|B-17 Flying Fortress]]
[[Thể loại:Máy bay
[[Thể loại:Máy bay trinh sát quân sự Hoa Kỳ 1930–1939]]
[[Thể loại:Máy bay không người lái Hoa Kỳ 1930–1939]]
|