Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Albert Nguyễn Cao”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → (2) using AWB
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 18:
Ông sinh vào tháng 8 năm 1925, xuất thân từ một gia đình địa chủ ở Sóc Trăng, [[Ba Xuyên]] có tên quốc tịch Pháp là Albert nên thường được gọi là '''Nguyễn Cao Albert'''. Ông đã từng học ở trường Lycée Yersin [[Đà Lạt]], tốt nghiệp với văn bằng Tú tài Pháp. Sau đó, ông được tuyển dụng làm công chức tại [[Đà Lạt]].
 
Năm 1951, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]], mang số quân: 45/102.685. Theo học khóa 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt ''(khai giảng ngày 14-4-19611951, mãn khóa ngày 1-12-1951)''. Tốt nghiệp thủ khoa với quân hàm Thiếu úy. Ra trường, ông được điều động về Tiểu đoàn Việt Nam với chức vụ Trung đội trưởng bộ binh. Năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và chuyển về văn phòng Bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan tùy viên cho Trung tướng [[Nguyễn Văn Hinh]], Tổng tham mưu trưởng.
 
Năm 1955, khi chính thể của nền [[Đệ nhất Cộng hòa]] ra đời, ông tiếp tục phục vụ và từ bỏ quốc tịch Pháp, ngay sau đó ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm. Tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và chuyển qua phục vụ ở Bộ tư lệnh Đệ nhất Quân khu. Đầu năm 1960, ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh [[An Giang]]. Qua đầu năm 1962, ông được giao nhiệm vụ mới làm Tổng quản trị Khu dinh điền Cao nguyên Trung phần. Đầu năm 1963, ông được điều về Bộ tư lệnh Quân khu 2 (Vùng 2) giữ chức vụ phụ tá cho Thiếu tướng [[Nguyễn Khánh]], Tư lệnh Quân khu.