Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Nguyễn Du”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Phạm Nguyễn Du''' (1739 - 1786), tên thật: '''Phạm Vĩ Khiêm''', tự là Hiếu Đức, hiệu: ''Thạch Động, Dưỡng Hiên''; là [[nhà sử học]], [[nhà thơ]] [[Việt Nam]] thời [[Hậu Lê|Lê mạt]].
 
==Tiểu sử==
'''Phạm Nguyễn Du''', người làng Đặng Điền, Tổng Đặng Xá, huyện Chân Phúc, trấn [[Nghệ An]], (nay là xóm Tiên Lạc, xã Nghi Xuân, huyện [[Nghi Lộc]], tỉnh [[Nghệ An]]).
 
Năm 1773, ông thi đỗ Giải nguyên. Khi chúa [[Trịnh Sâm]] cử tướng [[Hoàng Ngũ Phúc]] mang quân vào đánh [[Nam Hà]], chiếm được vùng [[Thuận Hóa]] (1774), ông nhận lệnh vào đấy giúp việc cho tướng viên tướng này.
Năm 1779, ông đỗ Hội nguyên (Hoàng giáp), cùng khoa với [[Phạm Quý Thích]] dưới triều vua [[Lê Hiển Tông]].
 
Ông làm quan trải qua các chức: Giám sát ngự sử đạo [[Hải Dương]], Thiêm sai, Đông các Đại học sĩ tại triều.
Một thời gian sau, ông được về làm Đốc đồng tại quê nhà (Nghệ An). Khi quân [[Tây Sơn]] ra [[Bắc Hà]] (1786), ông không ra giúp mà lánh vào rừng rồi mất<ref>Theo Tạ Ngọc Liễn, ông mất ôm theo tấm lòng hoài Lê (sách ghi ở mục tham khảo, tr. 209)</ref>cùng năm đó, lúc 47 tuổi.
 
Theo di huấn của Phạm Nguyễn Du, người dân và con cháu đã đem thi hài ông an táng tại mảnh vườn nhà, nơi ông đã sinh ra và lớn lên.
 
Ông đỗ [[Hoàng giáp]] năm 1779, cùng khoa với [[Phạm Quý Thích]]. Từng làm Giám sát ngự sử đạo [[Hải Dương]] thời vua [[Lê Hiển Tông]]. Khi tướng [[Hoàng Ngũ Phúc]] (thời chúa [[Trịnh Sâm]]) dẫn quân chiếm được vùng [[Thuận Hóa]] (1774), ông được cử vào đấy giúp việc cho tướng viên tướng này. Một thời gian sau, ông được về làm Đốc đồng tại quê nhà (Nghệ An). Khi quân [[Tây Sơn]] ra [[Bắc Hà]] (1786), ông lánh vào rừng rồi mất, lúc 47 tuổi.
==Tác phẩm==
Phạm Nguyễn Du có bốn tập thơ đều bằng [[chữ Hán]], đó là:
Hàng 12 ⟶ 20:
*'''Thạch Động thi tập''' (''Tập thơ Thạch Động'')
 
Ngoài ra, ông còn viết một số thư, trát, [[văn tế]], bài nghị luận (bàn về nguyên nhân thất bại của [[chúa Nguyễn]]); còn cùng với [[Ngô Thì Sĩ]], [[Ninh Tốn]] biên soạn sách '''Đại Việt sử ký tục biên'''.
 
==Nhận xét==
NgoạiCác trừtác phẩm của Phạm Nguyễn Du hiện vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quyển '''Thạch Động thi tập''', các sách tham khảo đều không cho biết gì, còn ba tác phẩm cònkia thì lạichỉnộimột dungít thông lượctin như sau:
 
*'''Đoạn trường lục''' cũng giống như ''[[Khuê ai lục]]'' của [[Ngô Thì Sĩ]], là một tập thơ khóc vợ, được Phạm Nguyễn Du làm từ lúc đưa linh cữu vợ xuống thuyền về quê cho đến khi trở lại [[Thăng Long]]. Các bài ở đây, nhìn chung đều có lời lẽ chân thực, thống thiết, đi vào chuyện riêng tư: tình vợ chồng, lòng thương nhớ, nỗi cô đơn... đánh dấu bước phát triển của thơ trữ tình Việt Nam.
*'''Nam hành kí đắc tập''' gồm các bài thơ do ông làm và do ông sưu tầm. Ở phần thơ do ông làm khi vào ở Thuận Hóa, đều là những bài phản ánh tình cảnh nhân dân [[Đàng Trong]] thời [[chúa Nguyễn]], vạch trần những chuyện thối nát, bất công trong xã hội lúc bấy giờ. Mảng thơ này được xem là có giá trị hơn cả, vì thế ông được xem là một nhà văn hiện thực nổi tiếng ở [[thế kỷ 18]]. Phần thơ sưu tầm, ông giới thiệu một số sáng tác của [[Nguyễn Cư Trinh]], [[Mạc Thiên Tứ]], [[Ngô Thế Lân]], Trần Thụy, Phạm Lam Anh, Nguyễn Dưỡng Hạo...Nhờ vậy, sau khi kết hợp với phần văn học trong ''[[Phủ biên tạp lục]]'' của [[Lê Quý Đôn]], mà ngàyđời naysau có những tư liệu khá chính xác về văn học [[miền Nam Việt Nam|miền Nam]] dưới thời Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước.
 
*'''Độc sử si tập''' là tập thơ vịnh sử, gồm 169 bài (''chưa làm xong, vì bận việc nên ông bỏ dở tập thơ''), viết trong vòng một tháng, lúc ông đang ở nhà dạy học, vịnh 150 nhân vật, đủ các loại vua chúa, văn thần, võ tướng...từ đời [[Bàn Cổ]] đến [[nhà Đường|đời Đường]] của [[Trung Quốc]].
==Ghi công==
Sau khi chôn cất Phạm Nguyễn Du, đền thờ ông cũng được xây dựng cạnh đó 300 [[mét]], tựa lưng vào khối núi Trượng Nhân Phong (còn gọi là núi Lập Thạch).
 
Hiện nay, Phạm Nguyễn Du được ghi nhận là danh nhân của tỉnh Nghệ An và được xếp trong danh sách các tác gia Việt Nam. Nhà thờ và mộ ông cũng đã được công nhận là ''Di tích lịch sử-văn hoá cấp quốc gia''<ref>Theo [http://hophamvietnam.org/1/index.php?mn=newsdetail&key=thong-tin-van-hoa&newsid=299&type=7]</ref>.
 
*'''Độc sử si tập''' là tập thơ vịnh sử, gồm 169 bài (''chưa làm xong, vì bận việc nên bỏ dở tập thơ''), viết trong vòng một tháng, lúc ông đang ở nhà dạy học, vịnh 150 nhân vật, đủ các loại vua chúa, văn thần, võ tướng...từ đời [[Bàn Cổ]] đến [[nhà Đường|đời Đường]] của [[Trung Quốc]].
==Giới thiệu thơ==
{|valign="top"
Hàng 74 ⟶ 86:
:''Trời đất sinh người có ý thế chăng?''
|}
==Chú thích==
{{reflist}}
==Sách tham khảo==
*Nguyễn Lộc, trong ''Từ điển văn học (bộ mới)''. Nxb Thế giới, 2004, tr. 1361.
Hàng 80 ⟶ 94:
==Liên kết ngoài==
*[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=15F7aWQ9MjI0MDgmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPXA=&page=3 Phạm Nguyễn Du trên Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam.]
*[http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/vanhoa/0001/0000/CD00D.htm Phạm Nguyễn Du-nhà thơ hiện thực sâu sắc. Bài viết trên website Bình Thuận.]
*[http://hophamvietnam.org/1/index.php?mn=newsdetail&key=thong-tin-van-hoa&newsid=299&type=7 Phạm Nguyễn Du trên website họ Phạm.]
 
[[Thể loại:Người Nghệ An]]
[[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam]]