Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hissène Habré”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 32:
Forces Armées Populaires or FAP
Habré đầu tiên thu hút sự chú ý của quốc tế khi một nhóm dưới sự chỉ huy của ông đã tấn công thị trấn Bardaï trong [[Tibesti]], vào ngày 21 tháng 4 năm 1974, và đã bắt ba người châu Âu làm con tin, với ý định đòi tiền chuộc những con tin này lấy tiền và vũ khí. Những người bị bắt là một bác sĩ người Đức, bác sĩ Christoph Staewen (có vợ là Elfriede đã bị giết chết trong cuộc tấn công), và hai công dân Pháp, Françoise Claustre, một nhà khảo cổ, và Marc Combe, một nhân viên phát triển. Staewen được thả vào ngày 11 tháng 6 năm 1974 sau khi đã nhận khoản tiền khá lớn của các quan chức Tây Đức<ref>{{Cite news|date=6 July 1974|title=Entführung: Bedenkliches Zugeständnis aus Bonn: Diplomatische Beziehungen abgebrochen – Dr. Staewen berichtet über Gefangenschait im Tschad (Abduction: dubious sanction from Bonn: Diplomatic relations broken off – Dr. Staewen reported hostage in Chad)|newspaper=Das Ostpreußenblatt|page=5|url=http://archiv.preussische-allgemeine.de/1974/1974_07_06_27.pdf|language=German}}</ref><ref>{{cite web |url=http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-41696557.html |title=Deutscher Rebellen-Funk |date=17 June 1974 |work=Der Spiegel |language=German |accessdate=3 July 2012}}</ref><ref>{{cite web |url=http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-41443747.html |title=Zum Weinen |date=15 September 1975 |work=Der Spiegel |language=German |accessdate=3 July 2012}}</ref>. Combe trốn thoát vào năm 1975, nhưng bất chấp sự can thiệp của Chính phủ Pháp, Claustre (có chồng là một quan chức cấp cao của chính phủ Pháp) là không được thả cho đến ngày 01 tháng 2 năm 1977. Habré chia tay với Oueddei, một phần trong vụ bắt con tin này (sau được gọi là "vụ Claustre" ở Pháp).
 
==Vươn lên quyền lực==
Trong tháng 8 năm 1978 Habré đã được bổ nhiệm chức Thủ tướng Chad như là một phần của một liên minh với Tướng [[Félix Malloum]].<ref name="Chad-CS"/>{{Rp|27}}<ref name="Meredith">{{cite book|last1=Meredith|first1=Martin|title=The Fate of Africa: A History of Fifty Years of Independence|date=2005|publisher=Public Affairs|location=New York|isbn=9781586482466|edition=1st}}</ref>{{Rp|353}} Tuy nhiên, liên minh chia sẻ quyền lực không kéo dài được lâu. Trong tháng hai năm 1979, lực lượng Habré và quân đội quốc gia theo Malloum giao chiến ở N'Djamena. Cuộc chiến này trên thực tế đã đưa nước Chad vào tình trạng không có một chính phủ quốc gia. Nhiều quốc gia khác đã có nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng, dẫn đến một chính phủ quốc gia mới trong tháng 11 năm 1979, trong đó Habré được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.<ref name="Meredith"/>{{Rp|353}} Tuy nhiên, giao tranh đã trở lại trong vòng một vài tuần. Trong tháng 12 năm 1980 Habré bị đẩy vào tình trạng lưu vong ở Sudan.<ref name="Meredith"/>{{Rp|354}} Năm 1982 ông đã tiếp tục chiến đấu chống chính phủ Chad. FAN đã giành được quyền kiểm soát N'Djamena ngày 7 tháng 6 và bổ nhiệm Habré làm nguyên thủ quốc gia.<ref name="Chad-CS"/>{{Rp|30, 151}}
 
==Tham khảo==